Xứng đáng với vai trò ngành kinh tế chủ lực
Những năm qua, công nghiệp Ninh Bình có bước chuyển biến tích cực cả về quy mô và tốc độ tăng trưởng. Nhiều giải pháp nhằm huy động các nguồn lực, tập trung phát triển những sản phẩm có ưu thế được thực hiện đồng bộ, hiệu quả. » Xem thêm
Tóm tắt nội dung tài liệu
- Xứng đáng với vai trò ngành
kinh tế chủ lực
Những năm qua, công nghiệp Ninh Bình có bước chuyển
biến tích cực cả về quy mô và tốc độ tăng trưởng. Nhiều giải
pháp nhằm huy động các nguồn lực, tập trung phát triển
những sản phẩm có ưu thế được thực hiện đồng bộ, hiệu
quả. Sản xuất công nghiệp phát triển trở thành động lực
chính để phát triển kinh tế - xã hội, tạo tiền đề thuận lợi cho
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh.
Tập trung phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn
Thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
trong hơn 20 năm qua (1992 - 2011), ngành công thương Ninh
Bình tập trung củng cố, tổ chức lại sản xuất, tăng cường cơ sở
vật chất, kỹ thuật, nâng cao năng lực sản xuất để khai thác tiềm
năng, thế mạnh của tỉnh, đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu
công nghiệp theo hướng ưu tiên thu hút đầu tư các ngành công
nghiệp vật liệu, các ngành kỹ thuật cao, các ngành công nghiệp
tạo ra sản phẩm có hàm lượng công nghệ và có giá trị gia tăng
cao, tạo ra mũi nhọn bứt phá, nhằm sớm đưa Ninh Bình trở
thành tỉnh công nghiệp.
Đặc biệt, từ năm 2006 đến nay, quá trình thực hiện kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh có nhiều thuận lợi. Giai đoạn
này, sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh có bước chuyển biến
tích cực cả về quy mô và tốc độ tăng trưởng. Nhiều giải pháp
huy động các nguồn lực, tập trung phát triển nhiều sản phẩm
tăng lên đáng kể do được đầu tư các công nghệ sản xuất tiên
- tiến, hiện đại. Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng trở thành
lĩnh vực mũi nhọn, trong đó sản xuất xi-măng, thép cán là những
sản phẩm chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn. Ngành công nghiệp duy
trì được tốc độ tăng trưởng cao cả về giá trị sản xuất và giá trị
tăng thêm. Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân
giai đoạn 2006 - 2011 đạt 27,1%/năm; đặc biệt năm 2011, giá trị
sản xuất công nghiệp tăng 50,04% so với năm 2010. Chỉ số phát
triển công nghiệp (IIP) của Ninh Bình năm 2011 ước đạt
137,2%; xếp thứ 3/63 tỉnh (thành phố) trong cả nước.
Những sản phẩm công nghiệp chủ yếu phục vụ sản xuất, xuất
khẩu và tiêu dùng có mức tăng khá, như xe ô-tô 4 chỗ, thép cán;
xi-măng, cờ-lanh-ke, gạch xây bằng đất nung; sản phẩm may
mặc, giày dép, … đã đóng góp không nhỏ vào việc khai thác
tiềm năng, nguồn nhân lực sẵn có của địa phương, góp phần giải
quyết việc làm cho hàng vạn lao động tại địa phương, đồng thời
thu hút nguồn nhân lực của các tỉnh lân cận.
Ngành công nghiệp phát triển góp phần tích cực vào chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Sau khi hàng loạt các cơ sở sản
xuất lớn hoàn thành giai đoạn đầu tư, đi vào sản xuất ổn định,
như các nhà máy xi-măng (Tam Điệp, Hướng Dương, Duyên
Hà, The Vissai); các nhà máy sản xuất gạch xây dựng (Gạch
Tam Điệp, Yên Từ, Sông Chanh,…); Công ty TNHH cán thép
Tam Điệp (POMIHOA); các cơ sở may, giày dép (May Đài
Loan, Nienhseng, Phoenix, Excel,…); Công ty Ô-tô Thành
Công, Công ty TNHH ADM 21 Việt Nam, Nhà máy sản xuất
kính nổi và nhiều cơ sở sản xuất ở các khu, cụm công nghiệp
trong tỉnh đã thật sự đưa Ninh Bình trở thành tỉnh có tốc độ phát
triển công nghiệp đột biến, chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách
rõ nét. Giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh tăng nhanh đã tác
động mạnh tới tốc độ tăng trưởng kinh tế chung và góp phần
- quan trọng tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng
giảm dần tỷ trọng nông - lâm - thủy sản, tăng tỷ trọng công
nghiệp - xây dựng và dịch vụ, tạo tiền đề phát triển cho những
năm tiếp theo.
Bên cạnh việc đẩy mạnh sản xuất, Giá trị sản xuất công
kinh doanh của các doanh nghiệp, nghiệp trên địa bàn toàn
tỉnh đã đề ra nhiều cơ chế, chính tỉnh năm 2011 ước đạt
sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư 12.826,6 tỉ đồng (giá so
thông thoáng, tăng cường thu hút sánh 1994), gấp gần 42
các dự án đầu tư vào các khu, cụm lần so với thực hiện năm
công nghiệp. Trên địa bàn tỉnh đã và 1991. Tốc độ tăng trưởng
đang triển khai xây dựng 5 khu công bình quân giai đoạn 1992-
nghiệp: Gián Khẩu, Khánh Phú, 2011 đạt 20,5%/năm;
Tam Điệp, Khánh Cư và Phúc Sơn. trong đó, bình quân mỗi
Tỷ lệ lấp đầy của Khu Công nghiệp năm giai đoạn 1992-1995
Gián Khẩu đạt 100%; Khánh Phú đạt tốc độ tăng trưởng
đạt 95,4%; Tam Điệp đạt 51,5%. 7,1%, giai đoạn 1996-
Đến hết năm 2011, tổng số dự án 2000 đạt 18,3%, giai đoạn
đầu tư vào các khu công nghiệp 2001-2005 đạt 26,8%, và
được cấp giấy chứng nhận đầu tư giai đoạn 2006-2011 đạt
còn hiệu lực là 65 dự án, với số vốn 27,1%.
đăng ký là 39.864, 2 tỉ đồng; có 17
dự án có vốn đầu tư nước ngoài với số vốn đăng ký là 358,48
triệu USD, có 02 dự án xây dựng, kinh doanh hạ tầng khu công
nghiệp với số vốn đăng ký 1.242 tỉ đồng; đăng ký sử dụng
29.458 lao động; tổng diện tích đất cho thuê là 436,4 ha. Các dự
án trong khu công nghiệp đang duy trì sản xuất ổn định, đóng
góp lớn vào tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh
hằng năm. Một số dự án lớn đang tích cực triển khai để sớm đi
vào hoạt động góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng công nghiệp
- của tỉnh, như Nhà máy Đạm Ninh Bình, Nhà máy Luyện cán
thép chất lượng cao (thuộc Khu Công nghiệp Khánh Phú)…
Sản xuất công nghiệp phát triển tạo điều kiện chuyển dịch cơ
cấu lao động trên địa bàn. Việc số lượng cơ sở công nghiệp tăng
nhanh trong thời gian vừa qua đã tạo thêm nhiều việc làm cho
người lao động trên địa bàn tỉnh. Số lao động làm việc trong các
cơ sở công nghiệp trong hơn 20 năm qua đã tăng đáng kể, từ
20,9 nghìn người năm 1991, tăng lên gần 33 nghìn người năm
1995, hơn 45,1 nghìn người năm 2000, gần 66,3 nghìn người
năm 2005 và gần 112,4 nghìn người năm 2011. Như vậy, từ năm
1991 đến năm 2011, đã tăng gần 91,5 nghìn người làm việc
trong các cơ sở công nghiệp (bình quân mỗi năm tăng gần 4,6
nghìn lao động, tốc độ tăng bình quân 8,8%/năm), trong đó các
cơ sở kinh tế cá thể tăng gần 48,9 nghìn người, tư nhân tăng hơn
30,7 nghìn người.
Tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của các nghề truyền
thống
Đồng thời với phát triển công nghiệp, tỉnh Ninh Bình đã tập
trung quan tâm phát triển tiểu, thủ công nghiệp, phát triển ngành
nghề nông thôn, trong đó chú trọng phát triển các nghề truyền
thống, như chế biến cói, thêu ren, chế tác đá mỹ nghệ. Đến năm
2011, trên địa bàn tỉnh có 245 làng có nghề, trong đó có 54 làng
nghề được tỉnh công nhận đạt tiêu chuẩn làng nghề cấp tỉnh.
Trong điều kiện kinh tế thế giới có nhiều biến động, thị trường
xuất khẩu gặp nhiều khó khăn, các làng nghề sản xuất hàng xuất
khẩu của Ninh Bình vẫn cố gắng trụ vững và phát triển, đem lại
việc làm cho người dân và tăng trưởng kinh tế cho tỉnh. Theo
báo cáo của các địa phương, 54 làng nghề được tỉnh công nhận
đã thu hút 11.383 hộ, với 25.174 lao động tham gia làm nghề
tiểu, thủ công nghiệp, góp phần tạo thêm việc làm và thu nhập
- ổn định cho lao động nông thôn. Năm 2010, nghề đá mỹ nghệ
với 555 cơ sở sản xuất, thu hút 3.125 lao động; nghề chế biến
cói với 18.911 cơ sở chế biến, thu hút 32.049 lao động; nghề
thêu ren với 1.867 cơ sở thu hút 2.916 lao động…
Trong thời gian qua, Sở Công Thương Ninh Bình đã phối hợp
chặt chẽ với các ngành, các cấp trong tỉnh tham mưu giúp Tỉnh
ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành kịp
thời các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển ngành nghề truyền
thống (trồng, chế biến cói; thêu ren; chế tác đá mỹ nghệ) và mở
thêm nghề mới nhằm quyết tâm duy trì phát triển mô hình làng
nghề, vừa để giữ nghề, vừa để giúp khôi phục và phát triển kinh
tế. Theo đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Ninh Bình (khóa XIX) đã
ban hành Nghị quyết số 04/NQ-TU, về phát triển trồng, chế biến
cói; thêu ren và chế tác đá mỹ nghệ; Hội đồng nhân dân tỉnh
khóa XII ban hành Nghị quyết số 32/NQ-HĐND, về việc lập
Quỹ Khuyến công, Nghị quyết số 30/NQ-HĐND, Nghị quyết số
14/2008/NQ-HĐND, Nghị quyết số 02/NQ-HĐND; Ủy ban
nhân dân tỉnh Ninh Bình đã ban hành Kế hoạch số 18/KH-
UBND, để thực hiện Nghị quyết số 04, của Ban Thường vụ Tỉnh
ủy, Quyết định số 1485/2006/QĐ-UBND, về việc ban hành quy
định về xây dựng, quản lý và sử dụng kinh phí khuyến công,
Quyết định số 226/QĐ-UBND, Quyết định số 357/2006/QĐ-
UBND, về việc ban hành quy định chính sách khuyến khích xuất
khẩu trên địa bàn tỉnh,… để hỗ trợ phát triển nghề tiểu, thủ công
nghiệp và xuất khẩu của tỉnh. Trong giai đoạn từ năm 2005 đến
năm 2011, Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công
nghiệp thuộc Sở Công Thương Ninh Bình đã thực hiện hỗ trợ
5,9 tỉ đồng từ nguồn kinh phí khuyến công Trung ương để thực
hiện 41 đề án và 7,6 tỉ đồng từ nguồn quỹ kinh phí khuyến công
địa phương để thực hiện 125 đề án, tập trung vào các nội dung
đào tạo nghề cho 13.789 lượt lao động, hỗ trợ đầu tư mở rộng cơ
- sở sản xuất, ứng dụng khoa học, kỹ thuật, công nhận làng
nghề,… Đồng thời, Sở Công Thương đã thực hiện hỗ trợ từ
ngân sách tỉnh trên 5 tỉ đồng cho các tổ chức, doanh nghiệp thực
hiện các hoạt động xúc tiến thương mại giúp các cơ sở sản xuất,
kinh doanh quảng bá giới thiệu sản phẩm, tìm kiếm và mở rộng
thị trường xuất khẩu, xây dựng thương hiệu hàng hóa, từng bước
nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế. Bằng
các giải pháp kịp thời, sát thực của tỉnh đã tạo điều kiện để
ngành tiểu, thủ công nghiệp của tỉnh tiếp tục phát triển.
Khơi dậy tiềm năng, thế mạnh của địa phương gắn liền với
tiết kiệm nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái
Trong những năm tới, chủ trương phát triển công nghiệp của
tỉnh là tận dụng tiềm năng thế mạnh sẵn có của địa phương tiếp
tục tập trung mọi nguồn lực đẩy mạnh sản xuất công nghiệp gắn
với phát triển bền vững. Duy trì, ổn định sản xuất các sản phẩm
công nghiệp chủ lực (thép cán, xi-măng, ô-tô, phân đạm); nâng
cao chất lượng thu hút đầu tư, ưu tiên thu hút các dự án đầu tư
có công nghệ tiên tiến, hiện đại, thân thiện với môi trường, các
ngành công nghiệp phụ trợ,… trên cơ sở chủ động về nguồn
nguyên liệu, đồng thời bảo đảm sử dụng tiết kiệm hiệu quả
nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái.
Quản lý, khai thác có hiệu quả các khu, cụm công nghiệp hiện
có; triển khai đầu tư xây dựng các khu, cụm công nghiệp mới để
thu hút các dự án đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp
trong thời gian tới. Chú trọng phối hợp với chính quyền địa
phương thực hiện tốt chính sách tái định cư và tạo việc làm, thu
nhập cho nhân dân vùng thực hiện các dự án đầu tư công nghiệp
của tỉnh.
Sử dụng hiệu quả các nguồn kinh phí khuyến công, xúc tiến
thương mại, đào tạo nghề, vốn sự nghiệp khoa học,... để hỗ trợ
- các cơ sở sản xuất, kinh doanh đẩy mạnh phát triển tiểu, thủ
công nghiệp trên địa bàn tỉnh, chú trọng phát triển các mặt hàng
thủ công mỹ nghệ, nhất là các làng nghề truyền thống gắn với
thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông
thôn mới và thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy về phát triển du
lịch.
Phát triển công nghiệp theo quy hoạch, tăng cường công tác
quản lý nhà nước lĩnh vực công nghiệp, nhất là công tác quản lý
về môi trường sản xuất công nghiệp, khuyến khích các thành
phần kinh tế đẩy mạnh công tác ứng dụng khoa học, công nghệ;
sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả; xây dựng kế hoạch và
triển khai thực hiện chiến lược sản xuất sạch hơn trong công
nghiệp cùng với bảo vệ môi trường là giải pháp bảo đảm cho
phát triển công nghiệp gắn với phát triển bền vững của tỉnh Ninh
Bình trong những năm tiếp theo./.