Giáo trình Kế toán quản trị: Phần 1 - TS. Đặng Thị Hòa (Chủ biên)
Giáo trình "Kế toán quản trị" được biên soạn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình học tập của sinh viên khối ngành Kinh tế, nhất là sinh viên chuyên ngành Kế toán - Tài chính, đồng thời giúp các nhà quản lý doanh nghiệp hiểu rõ hơn về Kế toán quản trị để có thể ứng dụng vào thực tiễn công t... » Xem thêm
Tóm tắt nội dung tài liệu
- TT TT-TV * ĐHTM
657.8
JỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
GIA TS. Đặng Thị Hoà (Chủ biên)
2006
GT.0001441
Giáo trình
KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
GT.0001441 'XUẤT IBẢN THỐNG KÊ
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
TS. Đặng Thị Hoà (Chủ biên)
GIÁO TRÌNH
KÊ TOÁN QUẢN TRỊ
NHÀ XƯẤT BẢN THỐNG KÊ - 2006
- LỜI NÓI ĐÂU
Trong xu thế toàn cầu hoá, nền kinh tế các nước ngày càng
phát triển mạnh mẽ. Nhu cầu thông tin cho quản lý ngày càng trở
nên quan trọng và đòi hỏi phải được thoả mãn ở mức độ cao cả về
số lượng, chất lượng.
Kế toán với chức năng thông tin và kiểm tra các hoạt động
kinh tế tài chính trong các đơn vị kinh tế, tổ chức và cơ quan cũng
phải từng bước hoàn thiện, phát triển nhằm thoả mãn nhu cầu thông
tin kinh tế tài chính phục vụ cho điều hành, quản lý các hoạt động
kinh tế tài chính của các nhà quản lý và đối tượng khác ở trong,
ngoài đơn vị.
Cãn cứ vào mục đích thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin cho
hai loại đối tượng trong và ngoài đơn vị, kế toán được chia thành
hai hệ thống là Kế toán tài chính và Kế toán quản trị. Kế toán tài
chính phục vụ cho việc lập Báo cáo tài chính để phát hành ra bên
ngoài đơn vị, Kế toán quản trị phục vụ cho công tác quản lý, điều
hành hoạt động kinh tế tài chính trong nội bộ đơn vị.
Ở Việt Nam, Kế toán quản trị mới chỉ xuất hiện trong những
nãm gần đây nhưng đã minh chứng được vai trò quan trọng không
thể thiếu trong công tác điều hành, quản lý nội bộ dơn vị, nhất là
trong các doanh nghiệp.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình học tập của sinh
viên khối ngành Kinh tế, nhất là sinh viên chuyên ngành Kế toán -
Tài chính, đồng thời giúp các nhà quản lý doanh nghiệp hiểu rõ hơn
về Kế toán quản trị để có thể ứng dụng vào thực tiễn công tác quản
lý tại'doanh nghiệp, tập thể giáo viên 2 bộ môn Kế Toán Cãn bản và
Kế Toán doanh nghiệp, Khoa Kế toán - Tài chính, Trường Đại học
Thương mại Hà nội tổ chức biên soạn cuốn “Giáo trình Kế toán
quản trị”
3
- Nội dung giáo trình và các tác giả tham gia biên soạn gồm:
■ TS. Đặng Thị Hoà, Trưởng Bộ môn Kế toán cãn bản làm chủ
biên và trực tiếp biên soạn chương I và chương II.
■ TS. Trần Hồng Mai biên soạn chương III.
■ Th s. Nguyễn Thị Hà và Th s. Nguyễn Phú Giang biên soạn
chương IV.
■ TS. Đỗ Minh Thành và ThS. Lê Thị Thanh Hải biên soạn
chương V.
■ TS. Đoàn Vân Anh và TS. Phạm Thị Thu Thuỷ biên soạn
chương VI.
Mặc dù tập thể tác giả đã rất cố gắng trong quá trình biên soạn,
song đây là lần biên soạn đầu tiên nên chắc chắn trong giáo trình
không tránh khỏi những khiếm khuyết. Bộ môn Kế Toán Căn bản
và Bộ môn Kế Toán Doanh nghiệp Trường Đại học Thương mại và
tập thể tác giả mong nhận được sự đóng góp của các nhà khoa học
và bạn đọc để lần tái bản sau giáo trình đạt chất lượng cao hơn.
4
- Chương I
KHÁI QUÁT VỂ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
1.1. Thông tin của kế toán với hoạt động quản lý tổ chức
1.1.1. Khái quát về tổ chức doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm về tổ chức
Một tổ chức có thể được hiểu như là một nhóm người liên kết với
nhau để thực hiện một hay một số mục tiêu chung nào đó. Ví dụ: một
doanh nghiệp là một tổ chức, vì nó bao gồm các thành viên cùng góp
vốn và liên kết với nhau để thực hiện một mục tiêu chung là tìm kiếm
lợi nhuận; một trường học là một tổ chức, vì nó bao gồm các thành
viên liên kết với nhau để cùng thực hiện mục tiêu giáo dục và đào
tạo... Như vậy khi nói đến một tổ chức, phải hiểu là bao -gồm những
con người chứ không phải là của cải vật chất của tổ chức.
Trong xã hội có rất nhiều tổ chức hoạt động với mục tiêu khác
nhau. Căn cứ vào mục tiêu hoạt động cơ bản, các tổ chức trong xã
hội có thể được phân thành 3 nhóm sau:
- Các tổ chức hành chính sự nghiệp: là những tổ chức hoạt động
vì mục tiêu thực hiện chức năng quản lý nhà nước và vì sự phát triển
chung của toàn xã hội. Thuộc loại hình tổ chức này là các cơ quan
hành chính sự nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, hoạt động bằng kinh
phí của nhà nước và do nhà nước quản lý như các Bộ, các Sở, các
trường phổ thông, đại học công lập, tổ chức quân đội, công an...
- Các tổ chức doanh nghiệp (DN): là những tổ chức hoạt động vì
mục tiêu lợi nhuận. Thuộc loại hình tổ chức này bao gồm tất cả các
DN thuộc mọi thành phần kinh tế: DN nhà nước, Công ty cổ phần,
Công ty TNHH, DN tư nhân...
5
- - Các tổ chức xã hội: là các tổ chức hoạt động vì mục tiêu phục
vụ cộng đồng như các hội (Hội chữ thập đỏ, Hội người mù...), các
câu lạc bộ. các tổ chức phi chính phủ...
Mỗi nhóm bao gồm nhiều tổ chức khác nhau. Mỗi lổ chức khác
nhau sẽ có những mục tiêu cụ thể khác nhau, nhưng hầu hết các tổ
chức đều có một số đặc điểm chung sau:
- Mỗi tổ chức sẽ có một hoặc nhiều mục tiêu hoạt động.
- Mỗi tổ chức đều phải xây dựng kế hoạch chiến lược nhằm đạt
được mục tiêu đã đề ra.
- Mỗi tổ chức sẽ có 1 hoặc một nhóm người quản lý để đề ra kế
hoạch, tổ chức, điều hành thực hiện kế hoạch, kiểm tra đánh giá kết
quả thực hiện kế hoạch và đề ra các quyết định ngắn hạn, dài hạn
cho hoạt động của tổ chức.
- Mỗi tổ chức đều có một cấu trúc tổ chức, trong đó chỉ rõ
nhiệm vụ của từng bộ phận và mối liên hệ trách nhiệm giữa các nhà
quản lý bộ phận.
- Mỗi tổ chức đều có một nhu cầu lớn về thông tin để giúp cho
việc thực hiện các chiến lược của mình.
Do những đặc điểm giống nhau cơ bản trên đây nên những vấn
đề nghiên cứu trong môn học này có thể sẽ được áp dụng trong các
tổ chức, mặc dù mục đích của môn học kế toán quản trị là cung cấp
những vấn đề thuộc về bản chất và cách sử dụng các số liệu kế toán
quản trị trong loại hình tổ chức DN. Tuy nhiên, không phải mọi vấn
đề đều phù hợp, các nhà quản lý của các loại hình tổ chức khác
(không phải là DN) có thể lựa chọn những vấn đề phù hợp với tổ
chức mình để sử dụng.
1.1.1.2. Các mục tiêu hoạt động của tổ chức doanh nghiệp
Bất kỳ một tổ chức doanh nghiệp nào, để hình thành và phát
triển đều phải thực hiện các hoạt động cơ bản sau:
6
- * Xác đinh mục tiêu:
Hầu hết các doanh nghiệp đều có mục tiêu chính là hoạt động
kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận. Ngoài mục tiêu chính là
lợi nhuận, các doanh nghiệp còn có thể quan tâm đến các mục tiêu
khác như uy tín về chất lượng sản phẩm, dịch vụ; về sự làm ãn chân
chính và liêm khiết, mục tiêu chính trị (phải đạt một vị trí nhất định
trong xã hội và môi trường kinh doanh)... Các mục tiêu mà DN đã
xác định sẽ là cưomg lĩnh cho quấ trình hoạt động của doanh nghiệp.
Để thực hiện các mục tiêu đã định, các tổ chức doanh nghiệp
thường phải chọn ra và uỷ thác cho một nhóm người có quyền lực
và có trách nhiệm tổ chức, điều hành, giám sát việc thực hiện các
mục tiêu. Đó chính là các nhà quản trị doanh nghiệp.
* Xác định kế hoạch chiến lược:
Việc xác định phương thức hoạt động của doanh nghiệp, nhằm
thực hiện các mục tiêu cơ bản lâu dài gọi là lập kế hoạch chiến
lược.Trong mọi tổ chức doanh nghiệp, việc xác định kế hoạch chiến
lược thường được thực hiện qua 2 giai đoạn:
* Xác định chiến lược sản xuất
- Xác định sản phẩm sản xuất, kinh doanh hoặc dịch vụ cung
cấp. Ớ giai đoạn này, ban quản lý doanh nghiệp cần phải xác định
chiến lược về lĩnh vực hoạt động (sản xuất, kinh doanh thuơng mại
hay cung cấp dịch vụ...). Sau đó, cần phải xác định chiến lược về
mặt hàng kinh doanh (sản xuất sản phẩm gì, kinh doanh loại hàng
hoá nào...).
- Xác định chiến lược tiếp thị: là việc xác định thị trường và
phương thức thực hiện để đưa sản phẩm, dịch vụ đến người tiêu dùng.
Các chiến lược được xem như đường lối hoạt động của tổ chức
doanh nghiệp, nó là cơ sở. là kim chỉ nam để điều hành mọi hoạt
động của tổ chức và xác định nhu cầu về các thõng tin kế toán.
7
- * Thực hiện kế hoạch nhằm đạt được mục tiêu đa xúc định:
Trên cơ sở mục tiêu đã xác định và kế hoạch chiến lược đã xây dựng
các nhà quản trị DN phải liên kết, huy động các nguồn lực tổ chức điều
hành hoạt động kinh doanh của DN nhằm đạt được mục tiêu.
1.1.2. Thông tin kế toán với hoạt động quản lý tổ chức
Hạch toán kế toán là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ
thống công cụ quản lý kinh tế, tài chính, có vai trò tích cực trong
việc quản lý, điều hành và kiểm soát các hoạt động kinh tế. Với tư
cách là công cụ quản lý kinh tế, tài chính, kế toán là một lĩnh vực
gắn liền với hoạt động kinh tế, tài chính, đảm nhiệm hệ thống tổ
chức thông tin có ích cho các quyết định kinh tế. Vì vậy, kế toán có
vai trò đặc biệt quan trọng không chỉ với hoạt động tài chính nhà
nước, mà còn vô cùng cần thiết và quan trọng với hoạt động tài
chính doanh nghiệp.
Chức năng của kế toán là cung cấp những thông tin hữu ích về
kinh tế, tài chính của một tổ chức cho các đối tượng cần sử dụng
thông tin kế toán trong xã hội - các nhà quản lý.
Để thông tin được đưa ra dưới dạng hữu ích, kế toán phải tổ
chức thu nhận thông tin, xử lý thông tin đã thu nhận và tổng hợp
chúng thành những báo cáo kế toán đáp ứng cho nhu cầu của người
sử dụng thông tin.
Tất cả các tổ chức và cá nhân có lợi -ích trực tiếp hoặc gián tiếp
ở DN đều có nhu cầu sử dụng thông tin kế toán của DN. Xét theo
phạm vi DN, các đối tượng cần sử dụng thông tin kế toán của DN
được chia thành 2 loại: các đối tượng bên ngoài DN (Cơ quan quản
lý nhà nước, khách hàng, nhà cung cấp, ngân hàng và các chủ nợ,
nhà đầu tư... ) và các đối tượng bên trong DN (các nhà quán trị các
cấp trong DN). Hai loại đối tượng trên có nhu cầu khác nhau về
thông tin kế toán của DN. Các đối tượng bên ngoài DN cần thông
8
- tin tổng thể về tài sản và tình hình, kết quả hoạt động kinh doanh
của toàn DN, các nhà quản trị DN lại cần thông tin chi tiết về tình
hình và kết quả hoạt động kinh doanh của từng bộ phận, từng loại
hoạt động trong DN.
Xuất phát từ nhu cầu về thông tin kế toán của 2 loại đối tượng
khác nhau đó mà hệ thống kế toán doanh nghiệp được chia thành :
Kế toán tài chính (KTTC) và Kế toán quản trị (KTQT).
KTTC liên quan đến quá trình cung cấp thông tin về tình hình
kinh tế, tài chính của toàn doanh nghiệp (coi doanh nghiệp như một
thực thể thống nhất) cho các tổ chức, cá nhân bên ngoài doanh
nghiệp qua hệ thống báo cáo tài chính định kỳ: Bảng cân đối kế
toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển
tiền tệ, Thuyết minh báo cáo tài chính.
KTQT cung cấp thông tin thoả mãn nhu cầu của các nhà quản
trị trong doanh nghiệp, nhằm giúp các nhà quản trị các cấp trong
doanh nghiệp thực hiện các chức năng quản trị : lập kế hoạch; tổ
chức, điều hành; kiểm tra và ra quyết định. Do đó thông tin của
KTQT cung cấp liên quan đến việc báo cáo hoạt động kinh tế của
từng bộ phận, từng loại hoạt động trong doanh nghiệp và không chỉ
là những thông tin liên quan đến hoạt động kinh tế của doanh
nghiệp trong quá khứ mà còn cung cấp thông tin liên quan đến hoạt
động kinh tế của doanh nghiệp trong tưong lai.
1.2. Bản chất của kê toán quản trị
1.2.1. Khái niệm về kê toán quản trị
Như đã phân tích ở phần trên, KTQT là một bộ phận của hệ
thống kế toán doanh nghiệp, có chức năng thu nhận, xử lý và cung
cấp thông tin thoả mãn nhu cầu của các nhà quản trị doanh nghiệp,
là những người mà các quyết định và hành động của họ có liên
quan trực tiếp đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp.
9
- Như vậy, nếu thông tin không chi tiết, không đầy đủ các nhà quản
trị sẽ gặp khó khãn trong việc quản lý điều hành hoạt động của
doanh nghiệp. Nếu thông tin không chính xác, các nhà quản trị có
thể đưa ra các quyết định saj lầm ảnh hưởng đến quá trình tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp. Và nếu thông tin không được đáp ứng
kịp thời thì các vấn đề tồn tại sẽ chậm được khắc phục và có thể sẽ
mất cơ hội trong kinh doanh. Có thể nói, KTQT có một vai trò quan
trọng, cần thiết, không thể thiếu được đối với công tác quản trị
doanh nghiệp.
Đến nay, có nhiều khái niệm khác nhau về KTQT:
Theo giáo sư, tiến sỹ Ronald, w.Hilton thuộc trường Đại học
Cornell - Mỹ thì: “KTQT là một bộ phận của hệ thống thông tin
quản trị trong các tổ chức, mà nhà quản trị dựa vào đó để hoạch
định và kiểm soát các hoạt động của tổ chức”
Theo các giáo sư, tiến sỹ: Jack. J.Smith; Robert. M.Keith và
William. L.Slephens ở trường Đại học South - Florida, thì: “KTQT
là một hệ thống kế toán cung cấp cho các nhà quản trị những thông
tin định lượng mà họ cần để hoạch định và kiểm soát”.
Theo Ray.H.Garroson: “KTQT có liên hệ với việc cung cấp tư
liệu cho các nhà quản lý- những người trong tổ chức kinh tế và có
trách nhiệm trong việc điều hành và kiểm soát mọi hoạt động của tổ
chức đó”
Theo Hiệp hội kế toán viên Hoa kỳ (1982) thì “KTQT là qui
trình định dạng, đo lường, tổng hợp, phân tích, lập báo cáo, giải
thích và thông đạt các số liệu tài chính và phi tài chính cho ban
giám đốc để lập kế hoạch, đánh giá, theo dõi việc thực hiện kế
hoạch trong phạm vị nội bộ một doanh nghiệp để đảm bảo cho việc
sử dụng có hiệu quả các tài sản và quản lý chặt chẽ các tài sản này”.
Ở Việt Nam, khái niệm sau về KTQT được nhiều người thừa
nhận: “KTQT là khoa học thu nhận xử lý và cung cấp thông tin về
10
- hoạt động sản xuất kinh doanh một cách cụ thế phục vụ cho các nhà
quản trị trong việc lập kế hoạch, điều hành, tổ chức thực hiện kế
hoạch và quản lý kinh tế tài chính trong nội bộ doanh nghiệp”.
Các khái niệm trên tuy cách phát biểu khác nhau, nhưng đều có
những vấn đề chung thể hiện bản chất của KTQT, dó là:
- KTQT là một bộ phận cấu thành không thể tách rời của hệ
thống kế toán DN và là công cụ quan trọng không thể thiếu được
trong công tác quản lý nội bộ doanh nghiệp.
- Người sử dụng thông tin do KTQT cung cấp là các nhà quản
trị trong doanh nghiệp.
- Thông tin của KTQT là nguồn thông tin chủ yếu giúp cho nhà
quản trị thực hiện các chức năng quản trị: Lập kế hoạch; tổ chức
điều hành thực hiện kế hoạch; kiểm tra đánh giá tình hình thực hiện
kế hoạch và ra quyết định.
1.2.2. Đối tượng và nội dung của kế toán quản trị:
1.2.2.1. Đối tượng của kế toán quản trị
KTQT là một bộ phận cấu thành trong hệ thống kế toán, nên
*TQT cũng nghiên cứu quá trình tái sản xuất xã hội, xét trên giác
K
độ tài sản và sự vận động của tài sản trong một đơn vị cụ thể. Tuy
nhiên, khác với KTTC, KTQT cung cấp thông tin chủ yếu cho các
nhà quản trị sử dụng nhằm quản lý, nghiên cứu và đưa ra quyết định
trong hoạt động của đơn vị. Do vậy, KTQT không chỉ thu nhận, xử
lý cung cấp thông tin quá khứ về tình hình quản lý và sử dụng tài
sản trong một đơn vị một cách kịp thời, chi tiết theo yêu cầu quản
lý mà còn thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin mang tính chất dự
báo tương lai đến tài sản và hoạt động của đơn vị, phục vụ cho nhà
quản trị trong việc hoạch định; lập kế hoạch và dự toán; tổ chức
thực hiện; kiểm tra, đánh giá hoạt động của đơn vị.
11
- Như vậy, KTQT là khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp thông
tin chi tiết trong quá khứ và những dự báo tương lai về tài sản và
hoạt động của một đơn vị cụ thể.
1.2.2.2. Nội dung của kế toán quản trị
KTQT là công cụ quan trọrig không thể thiếu trong công tác
quản lý nội bộ doanh nghiệp. Để hoạt dộng quản lý doanh nghiệp
đạt hiệu quả cao, các doanh nghiệp óần thiết phải tổ chức hệ thống
KTQT. Hệ thống KTQT doanh nghiệp trước hết phải thiết lập hệ
thống dự toán ngân sách phù hợp với mục tiêu và điều kiện cụ thể
của doanh nghiệp theo từng thời kỳ, bao gồm dự toán chi phí, dự
toán doanh thu và kết quả..., sau đó phải theo dõi suốt quá trình
thực hiện các dự toán từ khâu thu mua nguyên vật liệu, hàng hoá;
quá trình sản xuất, tính toán chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm;
cho đến khâu tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, xác định kết quả kinh
doanh theo từng loại sản phẩm, hàng hoá, từng hoạt động dịch vụ.
Từ đó, KTQT phải phân tích tình hình thực hiện dự toán, rút ra
nguyên nhân chêch lệch giữa thực hiện với dự toán, kết hợp với việc
thu thập xử lý những thông tin cần thiết khác (tình hình thị trường,
giá cả, chính sách tiếp thị, cạnh tranh, chính sách kinh tế của Nhà
nước...) để giúp các nhà quản trị doanh nghiệp dự kiến phương
hướng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai.
Tóm lại, những nội dung cơ bản của KTQT doanh nghiệp, bao gồm:
- Lượng hoá và xây dựng dự toán ngân sách cho các mục tiêu
hoạt động của doanh nghiệp.
- Phân loại và kiểm soát chi phí theo từng loại, từng thành phần,
yếu tố chi phí. Tập hợp chi phí sản xuất, tính toán giá thành cho
từng loại sản phẩm, từng công việc, từng hoạt động dịch vụ.
- Kiểm soát và cung cấp thông tin về tình hình thực hiện các dự
toán, phân tích giải trình các nguyên nhân gây chênh lệch giữa thực
hiện với dự toán.
12
- - Thu nhận, xử lý và cung cấp nhưng thông tin cần thiết, thích
hợp giúp các nhà quản trị lựa chọn quyết định kinh doanh hợp lý.
1.3. Kê toán quản trị với các chức nãng quản lý
Việc điều hành các mặt hoạt động của doanh nghiệp là trách
nhiệm của các nhà quản trị các cấp trong doanh nghiệp đó. Các nhà
quản trị điều hành hoạt động của doanh nghiệp thông qua các chức
năng quản lý, đó là: lập kế hoạch; tổ chức, điều hành; kiểm tra;
đánh giá và ra quyết định. Những chức năng này thường được người
quản lý thực hiện cùng lúc với'một sự nỗ lực nhanh nhạy và tích
cực.Rất ít khi người quản lý ngừng lại để xem xét mình đang thực
hiện chức năng nào vào thời điểm nhất định nào đó. Cũng có thể họ
không xác định nổi họ đang thực hiện chức năng nào, vì một hành
động nào của họ cũng có thể liên quan đến cả 4 chức nãng. Có thể
khái quát các chức năng quản lý bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1. Chu kỳ thực hiện các chức năng quản lý
Qua sơ đồ này, chúng ta thấy sự liên tục của hoạt động quản lý
từ khâu lập kế hoạch đến tổ chức, kiểm tra, đánh giá rồi sauị đó lại
trở lại lập kế hoạch cho kỳ sau. Tất cả các hoạt động này đề^j xoay
quanh trục ra quyết định.
13
- Để thực hiện tốt các chức nãng quản lý, nhà quản trị có nhu cầu
thông tin rất lớn. Thông tin cần cho nhà quản lý được cung cấp từ
nhiều nguồn : các chuyên viên kinh tế, tiếp thị, tổ chức, kế toán và
các nguồn khác nữa, tất cả đều cung cấp thông tin cho quản lý và
nó sẽ giúp cho việc quản lý những giai đoạn khác nhau của quá
trình hoạt động của DN. Thông tin do KTQT cung cấp về bản chất
thường thuộc về tài chính và là nguồn thông tin chủ yếu giúp cho
nhà quản trị hoàn thành các chức năng lập kế hoạch; tổ chức, điều
hành; kiểm tra; đánh giá và ra quyết định.
Vai trò của thông tin KTQT đối với các chức nãng quản lý
được thể hiện trong từng khâu như sau:
1.3.1. Lập kê hoạch
Lập kế hoạch là xác định các mục tiêu phải đạt và vạch ra các
bước phải thực hiện để đạt những mục tiêu đó. Các kế hoạch được
lập ra có thể là dài hạn hay ngắn hạn. Các kế hoạch thường được lập
dưới dạng dự toấn ngân sách, nhằm liên kết các mục tiêu và chỉ rõ
cách huy động, sử dụng các nguồn lực để đạt mục tiêu đề ra. Ví dụ,
dự toán chi phí sản xuất là liên kết giữa mục tiêu sản lượng sản xuất
kế hoạch với mục tiêu chi phí kế hoạch.
Để chức năng lập kế hoạch và dự toán của quản lý được thực
hiện tốt, để các kế hoạch và các dự toán lập ra đảm bảo tính khoa
học, hiệu quả và khả thi cao đòi hỏi chúng phải được dựa trên
những thông tin đầy đủ, thích hợp và có cơ sở. Những thông tin này
chủ yếu do KTQT cung cấp.
1.3.2. Tổ chức và diều hành
Với chức năng tổ chức và điều hành, nhà quản trị phải quyết
định cách thức liên kết tốt nhất giữa tổ chức, con người với các
nguồn tài - vật lực lại vói nhau nhằm thực hiện các kế hoạch đạt
hiệu quả cao nhất. Trong quá trình thực hiện chức năng này, nhà
quản lý phải giám sát hoạt động hàng ngày và giữ cho mọi hoạt
4
- động của tổ chức được tiến hành trôi chảy. Mọi nhân viên đều dược
giao nhiệm vụ, mọi cõng việc đều có người thực hiện, mọi vấn đề
đều phải được giải quyết kịp thời, mọi câu hỏi đều phải được trả lời
ngay và rất nhiều các quyết định hàng ngày hoặc không thường
xuyên được thực hiện.
Để thực hiện tốt chức năng này, nhà quản trị cần một lượng lớn
thông tin KTQT, đặc biệt là những thông tin phát sinh hàng ngày về
diễn biến của tình hình thực hiện kế hoạch để kịp thời điều chỉnh và
điều hành hoạt động của tổ chức hướng theo mục tiêu đã xác định.
1.3.3. Kiểm tra và đánh giá
Nhà quản trị sau khi đã lập kế hoạch đầy đủ và hợp lý, tổ chức
íhực hiện kế hoạch, đòi hỏi phải kiểm tra và đánh giá việc thực hiện
kế hoạch. Phương pháp thường được dùng là so sánh số liệu thực
hiện với số liệu kế hoạch hoặc dự toán, để nhận diện các sai biệt
giữa kết quả đạt được với mục tiêu đã đề ra. Để thực hiện được chức
năng này, nhà quản trị cần được các kế toán viên quản trị cung cấp
các báo cáo thực hiện, có tác dụng như một bước phản hồi giúp nhà
quản trị nhận diện những vấn đề, những khâu còn tồn tại và cần có
tác động của quản lý.
Thông thường các nhà quản trị thừa hành thường đánh giá từng
phần trong phạm vi kiểm soát của họ. Các nhà quản trị cấp cao hơn,
không tham gia trực tiếp vào điều hành hoạt động hàng ngày của tổ
chức, đánh giá và kiểm tra dựa vào các báo cáo thực hiện của từng
bộ phận thừa hành do KTQT cung cấp.
1.3.4. Ra quyết định
Phần lớn thông tin do KTQT cung cấp phục vụ chức năng ra
quyết định của nhà quản trị. Chức năng ra quyết định là một chức
năng quan trọng, xuyên suốt các khâu quản trị doanh nghiệp, từ
khâu lập kế hoạch; tổ chức thực hiện cho đến kiểm tra đánh giá.
Chức năng ra quyết định được vận dụng liên tục trong suốt quá
trình hoạt động của doanh nghiệp. Các quyết định của nhà quản trị
15
- có thể là các quyết định đầu từ dài hạn (như xây dựng thêm phân
xưởng sản xuất mới, lắp đặt thêm dây chuyền công .nghệ, thâm
nhập vào thị trường mới...), có thể là các quyết định ngắn hạn cho
một khoảng thời gian trước mắt (như quyết định tự sản xuất các chi
tiết của một loại sản phẩm của doanh nghiệp hay mua ngoài, quyết
định ngừng kinh doanh một bộ phận hay một loại sản phẩm...),
cũng có thể là các quyết định máng tính chất tác nghiệp, điều hành
hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp.
Để có được các quyết định đúng đắn và kịp thời, các nhà quản
trị cần phải có các thông tin đầy đủ, có đủ độ tin cậy và thích hợp.
Không có thông tin thì không thể ra được quyết định quản lý.
Ngược lại, nếu có quá nhiều thông tin và thông tin lại không đủ độ
tin cậy và không thích hợp sẽ dẫn đến tình trạng nhiễu thông tin
gây khó khăn cho việc lựa chọn quyết định hoặc dẫn đến lựa chọn
quyết định sai. Những thông tin thích hợp thoả mãn nhu cầu ra
quyết định của nhà quản trị thường không có sẩn. Do đó KTQT
phải thực hiện các nghiệp vụ phân tích chuyên môn, chọn lọc
những thông tin cần thiết, thích hợp, rồi tổng hợp trình bày chúng
theo một trình tự dễ hiểu nhất và giải thích quá trình phân tích đó
cho các nhà quản trị.
KTQT giúp các nhà quản trị trong quá trình ra quyết định
không chỉ bằng cách cung cấp thông tin, mà còn bằng cách vận
dụng các kỹ thuật phân tích vào những tình huống khác nhau,
để từ đó nhà quản trị lựa chọn các quyết định kinh doanh hợp lý
và có hiệu quả nhất.
1.3.5. Mối quan hệ giữa các chức năng quản lý vói quá trình KTQT
Từ những điều phân tích ở trên, chúng ta thấy giữa KTQT với
các chức năng quản lý có mối quan hệ mật thiết với nhau. Sơ đồ 1.2
sau cho thấy mối quan hệ này:
16
- Sơ đồ 1.2 - Môi quan hệ giữa các chức năng quản lý
và quá trình kế toán
Đối với mỗi doanh nghiệp, sau khi đã xác định các mục tiêu
chung, chúng sẽ được chính thức hoá bằng các chỉ tiêu kinh tế cụ thể.
Ví dụ, mục tiêu chung của năm kế hoạch là lợi nhuận tăng 10% và để
đạt mục tiêu đó doanh thụ phải tăng 20%... Các chỉ tiêu này trở thành
căn cứ để lập kế hoạch chính thức. Trên cơ sở kế hoạch đã lập, kế toán
soạn thảo và triển khai bản dự toán chung và các dự toán chi tiết để
làm cân cứ tổ chúc thục hiện, theo dõi, kiểm tra và đánh giá qiiá trình
17
- thực hiện kế hoạch. Sau đó kế toán thu thập kết’ quả thực hiện và soạn
thảo báo cáo thực hiện, cung cấp cho nhà quản trị để phân tích, đánh
giá, kịp thời phát hiện và khắc phục các điểm yếu kém.
Chu kỳ quản lý và quá trình kệ' toán vận động liên tục, lặp đi lập
lại không ngừng trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
1.4. Phân biệt kê toán quản ti*Ị và kế toán tài chính
1.4.1. Những điểm khác nhau giữa kế toán quản trị và kế toán
tài chính
Giữa KTQT và KTTC có những điểm khác nhau cơ bản sau:
* Về mục đích:
Mục đích của KTQT là thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin
phục vụ cho công tác quản lý trong nội bộ DN. Còn mục đích của
KTTC là thu nhận, xử lý thông tin phục vụ cho việc lập báo cáo tài
chính để phát hành ra bên ngoài DN.
* về dối tượng sử dụng thông tin:
Đối tượng sử dụng thông tin của KTQT là các nhà quản trị các
cấp trong DN. Còn đối tượng sử dụng thõng tin của KTTC là các tổ
chức và cá nhân ngoài DN.
* Về đặc điểm thông tin:
- KTQT đặt trọng tâm cho tương lai nhiều hơn, vì phần lớn các
nhiệm vụ và nhu cầu về thông tin của người quản lý có mục tiêu
cho tương lai. Sự khó khăn đối với nhà quản lý là không thể giả
định rằng tương lai chỉ là một sự phản ánh đơn giản của những gì
đã xảy ra trong quá khứ. Những thay đổi về điều kiện kinh tế, về
nhu cầu khách hàng, về điều kiện cạnh tranh... thường xảy ra, đòi
18