Lỗ hổng kiểm toán cho công ty chứng khoán
Điều này cộng với việc Bộ Tài chính vẫn nợ hướng dẫn trích lập dự phòng giảm giá chứng khoán OTC, khiến các công ty kiểm toán đối mặt với nhiều rủi ro hơn. Dưới đây là cuộc trao đổi với ông Bùi Văn Mai, Tổng thư ký Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) về vấn đề trên. » Xem thêm
Tóm tắt nội dung tài liệu
- Lỗ hổng kiểm toán cho công ty chứng
khoán
Điều này cộng với việc Bộ Tài chính vẫn nợ hướng dẫn trích lập dự phòng giảm
giá chứng khoán OTC, khiến các công ty kiểm toán đối mặt với nhiều rủi ro h ơn.
Dưới đây là cuộc trao đổi với ông Bùi Văn Mai, Tổng thư ký Hội kiểm toán viên
hành nghề Việt Nam (VACPA) về vấn đề trên.
- Theo quy định của Thông tư 165/2012/TT-BTC sửa đổi Thông tư 226/2010/TT-
BTC, có hiệu lực từ ngày 1/12, kết quả kiểm toán vốn khả dụng là căn cứ để Ủy
ban chứng khoán Nhà nước đưa ra quyết định đặt công ty chứng khoán vào tình
trạng kiểm soát đặc biệt. Theo ông, điều này khiến công ty kiểm toán và kiểm toán
viên có trách nhiệm nặng nề hơn?
- Việc kiểm toán vốn khả dụng là nghiệp vụ mới phát sinh, nên các công ty kiểm
toán chưa có nhiều kinh nghiệm, trong khi hướng dẫn của cơ quan quản lý chưa
đầy đủ, nên có thể có cách làm khác nhau ở các công ty kiểm toán. Gần đây, trong
quá trình kiểm tra các công ty kiểm toán, VACPA luôn nhắc nhở các công ty kiểm
toán và kiểm toán viên cần thận trọng khi kiểm toán vốn khả dụng của công ty
chứng khoán, để giảm thiểu rủi ro. Cụ thể, khi kiểm toán vốn khả dụng phải chú ý
2 loại thông tin quan trọng. Một là, nguồn tạo ra vốn khả dụng do những đối tượng
nào góp, tổng số là bao nhiêu, thực tế có góp hay không? Hai là, số vốn này được
thể hiện dưới dạng nào, tiền gửi ngân hàng, các khoản phải thu, cho vay hay khoản
đầu tư chứng khoán, với giá trị thực tế là bao nhiêu?
- Thực tế, việc xác định giá trị thực của khoản vốn các công ty chứng khoán đầu
tư chứng khoán OTC là gần như bất khả thi, bởi sau hàng chục năm thị trường
- chờ đợi và nhiều lần công ty chứng khoán kiến nghị, nhưng đến nay Bộ Tài chính
vẫn chưa ban hành hướng dẫn trích lập dự phòng giảm giá chứng khoán OTC?
- Tình trạng này không chỉ gây khó khăn cho công ty kiểm toán và kiểm toán viên,
mà cả cho chính các công ty chứng khoán, cũng như cơ quan quản lý trong việc
giám sát an toàn tài chính khối công ty chứng khoán. Việc thiếu hướng dẫn trích
lập dự phòng giảm giá chứng khoán OTC khiến công ty kiểm toán và kiểm toán
viên đối mặt với nhiều rủi ro, bởi phụ thuộc quá nhiều vào ý kiến chủ quan của
công ty chứng khoán và kiểm toán viên.
Vì chưa có hướng dẫn trích lập, nên công ty chứng khoán có thể tính dự phòng
theo chủ quan, cao thấp tùy ý. Bản thân kiểm toán viên cũng khó tìm được cơ sở
tính dự phòng có tính thuyết phục. Trường hợp nào cũng khiến kiểm toán viên khó
xử. Nếu không đồng ý với cách tính của công ty chứng khoán, thì kiểm toán viên
phải thuyết phục công ty chứng khoán hướng xử lý. Thực tế, có trường hợp kiểm
toán viên còn bị công ty chứng khoán thuyết phục bảo lưu cách tính toán của công
ty chứng khoán, nên tiềm ẩn không ít rủi ro, vì chưa có cơ sở rõ ràng cho trích lập
dự phòng giảm giá chứng khoán OTC. Trường hợp công ty chứng khoán không
lập dự phòng khoản đầu tư chứng khoán OTC, thì kiểm toán viên phải có nhiều
kinh nghiệm và có khả năng thuyết phục cao mới giúp công ty chứng khoán trích
lập dự phòng hợp lý.
- Theo ông, “lỗ hổng” trên có dẫn đến nguy cơ công ty chứng khoán “đi đêm” với
kiểm toán viên để “làm đẹp” báo cáo tài chính, báo cáo tỷ lệ vốn khả dụng?
- Không có gì đảm bảo tuyệt đối không xảy ra tình trạng trên, nhất là khi quy định
về kế toán đối với công ty chứng khoán còn bộc lộ không ít hạn chế, chậm được
hoàn chỉnh. Tuy nhiên, ngoài trường hợp có thể công ty chứng khoán thông đồng
với kiểm toán viên để có được kết quả kiểm toán “đẹp”, thì có thể những sai phạm
phát sinh do công ty chứng khoán cố tình gian dối.
- Theo quy định của pháp luật về kiểm toán, kiểm toán viên có trách nhiệm kiểm
tra, xác nhận về tính trung thực và hợp lý của các thông tin tài chính, trong đó có
thông tin về vốn khả dụng. kiểm toán viên không có trách nhiệm phát hiện hết các
gian lận của công ty chứng khoán và người lập báo cáo tài chính. Việc phát hiện
gian lận chỉ có thể được thực hiện thông qua các biện pháp nghiệp vụ của cơ quan
điều tra, kiểm sát, thanh tra.
- Có ý kiến cho rằng, việc xử lý các công ty kiểm toán có sai phạm khi kiểm toán
công ty chứng khoán thời gian qua gặp nhiều khó khăn, do Ủy ban chứng khoán
chỉ có quyền xử phạt hành chính, trong khi thẩm quyền đình chỉ hành nghề của
công ty kiểm toán và kiểm toán viên thuộc Bộ Tài chính. Ông nghĩ sao về vấn đề
này?
- Theo quy định của Luật kiểm toán độc lập, Bộ Tài chính là cơ quan xác nhận đủ
điều kiện hành nghề kiểm toán cho tất cả các công ty kiểm toán. Trong số các
công ty này, Ủy ban chứng khoán chọn ra những đơn vị đạt tiêu chuẩn hành nghề
cao hơn để cho phép kiểm toán công ty chứng khoán và doanh nghiệp niêm yết.
Thực ra, với quy định hiện hành, khi phát hiện công ty kiểm toán sai phạm, ngoài
phạt tiền và không đưa vào danh sách kiểm toán doanh nghiệp niêm yết, Ủy ban
chứng khoán còn có quyền kiến nghị Bộ Tài chính đình chỉ quyền được hành nghề
kiểm toán của công ty kiểm toán và kiểm toán viên. Nếu áp dụng nghiêm, những
chế tài này sẽ đủ sức răn đe đối với các trường hợp công ty kiểm toán vi phạm.