Nâng cấp TK VIP tải tài liệu không giới hạn và tắt QC

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Bảo đảm quyền con người thông qua cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự

Mục tiêu của đề tài là đưa ra cái nhìn toàn diện, có tính hệ thống và khoa học về các vấn đề pháp lý, thực tiễn liên quan đến quyền con người trong pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự; đánh giá thực trạng pháp luật, trên cơ sở đó xác đ... » Xem thêm

25-03-2022 31 6
QUẢNG CÁO

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐÀO THỊ HẢI YẾN B¶O §¶M QUYÒN CON NG¦êI TH¤NG QUA C¥ CHÕ BåI TH¦êNG NHµ N¦íC CHO NG¦êI BÞ OAN TRONG HO¹T §éNG Tè TôNG H×NH Sù LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐÀO THỊ HẢI YẾN B¶O §¶M QUYÒN CON NG¦êI TH¤NG QUA C¥ CHÕ BåI TH¦êNG NHµ N¦íC CHO NG¦êI BÞ OAN TRONG HO¹T §éNG Tè TôNG H×NH Sù Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TS. ĐỖ NGỌC QUANG HÀ NỘI - 2016
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi. Những số liệu, ví dụ và trích dẫn được nêu trong luận văn là trung thực, bảo đảm tính chính xác, tin cậy. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Tác giả luận văn Đào Thị Hải Yến
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI THÔNG QUA CƠ CHẾ BỒI THƢỜNG NHÀ NƢỚC CHO NGƢỜI BỊ OAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ .......................................................................................... 8 1.1. Những khái niệm có liên quan ......................................................... 8 1.1.1. Khái niệm về quyền con người ........................................................... 8 1.1.2. Khái niệm người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự ................... 9 1.1.3. Khái niệm cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự .................................................................. 13 1.2. Những thiệt hại của ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự .............................................................................................. 17 1.2.1. Quan điểm chung về thiệt hại của người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự ................................................................................... 17 1.2.2. Người bị oan bị thiệt hại về vật chất ................................................. 19 1.2.3. Người bị oan bị thiệt hại về tinh thần ............................................... 21 1.2.4. Người bị oan bị những thiệt hại khác................................................ 22 1.3. Sự phát triển của pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền con ngƣời thông qua cơ chế bồi thƣờng nhà nƣớc cho ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự ......................................... 22 1.3.1. Giai đoạn từ 1945 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 ...... 22 1.3.2. Giai đoạn từ 2003 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự 2015 ......... 27
  5. Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI THÔNG QUA CƠ CHẾ BỒI THƢỜNG NHÀ NƢỚC CHO NGƢỜI BỊ OAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ 2010 ĐẾN 2015 .............................................................................33 2.1. Quy định của pháp luật về cơ chế bồi thƣờng nhà nƣớc cho ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự .............................. 33 2.1.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 ...................................... 33 2.1.2. Quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ............. 34 2.2. Thực tiễn thực thi pháp luật về cơ chế bồi thƣờng nhà nƣớc cho ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự từ năm 2011 đến 2015................................................................................... 53 2.2.1. Thực trạng tình hình oan, sai làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong tố tụng hình sự ............................................... 53 2.2.2. Thực tiễn việc giải quyết bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự ở Việt Nam ..................................................... 63 2.2.3. Những tồn tại, vướng mắc và những nguyên nhân gây nên trong thực thi pháp luật bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự ........................................................ 64 Chƣơng 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT BỒI THƢỜNG NHÀ NƢỚC CHO NGƢỜI BỊ OAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ............. 68 3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về bảo đảm quyền con ngƣời thông qua cơ chế bồi thƣờng nhà nƣớc cho ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự ............................................. 68 3.1.1. Quan điểm của Đảng ......................................................................... 68 3.1.2. Quan điểm của Nhà nước .................................................................. 69
  6. 3.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến bồi thƣờng nhà nƣớc cho ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự...... 70 3.2.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự ............................................................ 70 3.2.2. Hoàn thiện các quy phạm pháp luật về tố tụng hình sự .................... 71 3.2.3. Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ...... 73 3.3. Các giải pháp khác .......................................................................... 80 3.3.1. Nâng cao trình độ, năng lực trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng hình sự trong việc phòng ngừa người bị oan ............... 80 3.3.2. Bảo đảm thực hiện tốt và nghiêm chỉnh nguyên tắc độc lập của Tòa án và các cơ quan, người tiến hành tố tụng khác ....................... 80 3.3.3. Đổi mới công tác kiểm sát của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự ..... 82 KẾT LUẬN .................................................................................................... 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 85
  7. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT BTNN: Bồi thường thiệt hại BLDS: Bộ luật Dân sự BLHS: Bộ luật Hình sự BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng TNBTCNN: Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước TTHS: Tố tụng hình sự XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Sau khi trở thành thành viên Liên hợp quốc, Việt Nam đã từng bước tham gia hầu hết các Công ước quốc tế về quyền con người, trong đó có Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 16/12/1966, có hiệu lực từ ngày 23/3/1976 (Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982). Công ước này đã tuyên bố: “Bất cứ người nào trở thành nạn nhân của việc bị bắt hoặc bị giam cầm bất hợp pháp đều có quyền yêu cầu được bồi thường” (khoản 5 Điều 9) [47; tr. 29]. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đã công nhận quyền được bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự (viết tắt là TTHS) gây ra là một trong những quyền cơ bản về dân sự, chính trị của con người. Theo đó, rất nhiều quốc gia đã cụ thể hóa trong các đạo luật với việc thừa nhận trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với những hậu quả do nhân viên nhà nước gây ra trong quá trình thực thi công vụ nói chung và trong hoạt động tố tụng hình sự nói riêng. Nhằm tiến tới xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, cũng như thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã gia nhập, Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với các thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước gây ra trong khi thi hành công vụ. Hiến pháp năm 1992 là văn bản đầu tiên ghi nhận tương đối rõ quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại khi có hành vi trái pháp luật của cán bộ, công chức trong quá trình thực thi công vụ. Cụ thể, Hiến pháp năm 1992 quy định: “Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, bị xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự” (Điều 72); Hiến pháp năm 1992 quy định “Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp 1
  9. pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi về danh dự” (Điều 74). Quy định này tiếp tục được khẳng định và cụ thể hóa hơn trong khoản 5, Điều 31 Hiến pháp năm 2013. Theo đó, những người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Bộ luật Dân sự (viết tắt là BLDS) năm 1995 đã dành hai Điều 623 và 624 để quy định trách nhiệm bồi thường của các cơ quan nhà nước và các quy định này tiếp tục được ghi nhận trong BLDS năm 2005 (Điều 619 và Điều 620), BLDS năm 2015 (Điều 598). Bộ luật Tố tụng hình sự (viết tắt là BLTTHS) năm 2003 cũng đã quy định “Người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi” (Điều 30) [47; tr. 17-18]. Và một bước tiến quan trọng là ngày 18/6/2009, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (viết tắt là Luật TNBTCNN) chính thức được thông qua tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XII, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2010, đây là đạo luật quy định riêng về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với những thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra, trong đó cũng quy định cụ thể việc bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. Để cụ thể hóa các quy định của Luật này, ngày 01/11/2012, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã liên tịch ban hành Thông tư liên tịch số 05/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BQP-BTC- BNN&PTNT hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự TTHS (viết tắt là Thông tư liên tịch số 05). Với sự ra đời của Luật TNBTCNN và Thông tư liên tịch số 05, những nội dung về đối tượng được bồi thường, phạm vi trách nhiệm bồi thường, tiêu 2
  10. chí xác định thiệt hại và mức bồi thường, kinh phí, cơ quan có trách nhiệm bồi thường và đặc biệt là nguyên tắc và trình tự thủ tục bồi thường được quy định cụ thể theo hướng bảo đảm quyền con người; tạo cơ chế thuận lợi giúp cho người bị thiệt hại thực hiện quyền yêu cầu bồi thường do hành vi gây thiệt hại của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng gây ra trong hoạt động tố tụng hình sự. Tuy nhiên, qua quá trình triển khai thi hành Luật TNBTCNN cho thấy, so với lĩnh vực quản lý hành chính, thi hành án dân sự, số lượng vụ việc giải quyết bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự chiếm tỷ lệ lớn và hầu hết các vụ việc trong hoạt động tố tụng hình sự thường là những vụ việc phức tạp, kéo dài, tạo ra sự quan tâm lớn trong dư luận xã hội. Trong quá trình giải quyết bồi thường vẫn còn tình trạng đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, làm cho vụ việc chậm được thụ lý và việc giải quyết bị kéo dài vượt quá thời hạn theo quy định của Luật TNBTCNN chưa bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại và gây bức xúc trong dư luận xã hội. Nhằm nghiên cứu, phân tích, đánh giá một cách tổng thể, toàn diện cơ sở xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự, từ đó, góp phần hoàn thiện, nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài “Bảo đảm quyền con người thông qua cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự”. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong quá trình tìm hiểu, đã có các đề tài, luận văn, báo cáo, hội thảo về lĩnh vực TNBTCNN, tiêu biểu có thể kể đến: - Lê Mai Anh (2002), Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, Luận án Tiến sĩ Luật học – Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội; - Hoàng Xuân Hoan (2013), Pháp luật của Việt Nam và một số quốc gia trên 3
  11. thế giới về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia; - Trần Việt Hưng (2014), Thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong THADS ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; - Lê Thái Phương (2006), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước, Luận văn Thạc sĩ - Đại học Luật Hà Nội; - Trần Quyết Thắng (2007), Cơ chế minh oan trong tố tụng hình sự Việt Nam. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sỹ luật học; Một số bài viết, báo cáo liên quan: - Nguyễn Ngọc Chí và Đào Thị Hà (2003), “Oan và sai trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp; - Nguyễn Ngọc Chí và Đào Thị Hà (2003), “Minh oan trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp; - Dương Thanh Mai và Đỗ Đình Lương (2002), “Trách nhiệm, thủ tục bồi thường thiệt hại đối với oan, sai trong tố tụng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp; - Dương Thanh Mai và Nguyễn Hoàng Hạnh (2001), “Bồi thường thiệt hại đối với oan sai trong tố tụng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp; - Đỗ Đình Lương và Hà Tú Cầu (2001), “Bàn về khái niệm oan, sai và căn cứ pháp lý xác định oan, sai trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp. 3. Mục tiêu nghiên cứu 3.1. Mục tiêu tổng quát - Đưa ra cái nhìn toàn diện, có tính hệ thống và khoa học về các vấn đề pháp lý, thực tiễn liên quan đến quyền con người trong pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. - Đánh giá thực trạng pháp luật, trên cơ sở đó xác định phương hướng, 4
  12. giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. 3.2. Mục tiêu cụ thể - Làm rõ khái niệm, đặc điểm, nội dung của pháp luật về bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. - Đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại cho người bị oan nhìn từ góc độ bảo đảm quyền con người. - Đưa ra được những giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động TTHS gây ra. 4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Là các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền con người thông qua cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự; thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại (viết tắt là BTTH) qua đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp giảm oan, sai và nâng cao hiệu quả công tác bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu các khái niệm, nội dung pháp luật về BTTH (về vật chất và tinh thần) cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động TTHS gây ra từ năm 2010 đến năm 2015 trong phạm cả nước. Đề tài không bao gồm toàn bộ phạm vi bồi thường của Nhà nước nói chung và các hoạt động tố tụng trong các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và lĩnh vực thi hành án dân sự. Trong phạm vi luận văn, tác giả chỉ nghiên cứu về lĩnh vực BTTH cho người bị oan trong TTHS làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật về BTTH trong TTHS. 5
  13. 5. Những đóng góp của đề tài Đề tài là công trình nghiên cứu chuyên khảo với những đóng góp về mặt khoa học trong việc phân tích một cách tương đối toàn diện các vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn việc hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền được BTTH của người bị oan trong các giai đoạn TTHS, góp phần hoàn thiện pháp luật về BTTH cho người bị oan. Kết quả nghiên cứu luận văn có những điểm mới về mặt khoa học như sau: Thứ nhất, phân tích và làm rõ các khái niệm người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự, cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự..., các nguyên tắc xác định phạm vi trách nhiệm bồi thường, cơ quan tố tụng có trách nhiệm bồi thường; các nguyên tắc xác định tính chất, mức độ thiệt hại; tính khả thi của quá trình BTTH; vai trò, đặc điểm, nội dung, yêu cầu của quá trình hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này. Thứ hai, sự phát triển của pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền con người thông qua cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự qua các thời kỳ, đồng thời chỉ ra những tồn tại của pháp luật hiện hành về vấn đề này. Thứ ba, phân tích những yêu cầu khách quan và kiến nghị các giải pháp cụ thể vận dụng trong quá trình hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này, trên cơ sở tổng quan của hệ thống pháp luật Việt Nam, phù hợp với yêu cầu mới. 6. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 6.1. Cơ sở lý luận Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, nhất là các quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Ngoài ra, luận văn còn dựa trên cơ sở lý luận của khoa học luật hình sự, luật TTHS, luật dân sự, những lý luận có tính phổ biến ở một số quốc gia về lĩnh vực này. 6
  14. 6.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận của triết học Mác - Lênin, trực tiếp sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử như phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích và tổng hợp. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu của các bộ môn khoa học khác như phương pháp luận so sánh, phương pháp thống kê... 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực trong việc hoàn thiện pháp luật về BTTH cho người bị oan trong hoạt động TTHS, tạo điều kiện cho việc bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, nâng cao tinh thần trách nhiệm của người thi hành công vụ trong hoạt động TTHS, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng oan, sai và góp phần hội nhập khu vực cũng như hội nhập quốc tế. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan nhà nước trong xây dựng, sửa đổi và thực thi các văn bản pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền con người trong pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cho người bị oan trong hoạt động TTHS ở Việt Nam; đồng thời có thể phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập pháp luật về lĩnh vực này. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài các phần: Mở đầu; Kết luận; Lời cam đoan; Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn được chia thành 3 Chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người thông qua cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về bảo đảm quyền con người thông qua cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự từ 2010 đến 2015. Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. 7
  15. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI THÔNG QUA CƠ CHẾ BỒI THƢỜNG NHÀ NƢỚC CHO NGƢỜI BỊ OAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Những khái niệm có liên quan 1.1.1. Khái niệm về quyền con người Quyền con người là sự kết tinh những giá trị cao đẹp nhất trong nền văn hóa của nhân loại mà trong đó, những giá trị này “được đóng góp của tất cả các quốc gia, dân tộc, giai cấp, tầng lớp và cá nhân con người trên thế giới” [54, tr.14]. Tuy nhiên, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi khu vực trên thế giới có sự khác nhau về chính trị, lịch sử, văn hóa, tôn giáo, do đó, hình thành nên rất nhiều cách hiểu khác nhau về quyền con người. Cho đến nay, có đến “gần 50 định nghĩa về quyền con người” [54, tr.41], theo đó, mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề về quyền con người khác nhau bởi lẽ mỗi định nghĩa lại phụ thuộc vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân sống tại quốc gia đó, dân tộc đó. Ở cấp độ quốc tế, Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người đã định nghĩa “quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người” [54, tr.41]. Ở Việt Nam, quyền con người thể hiện qua những ý niệm và hành động khoan dung nhân đạo xuất phát từ hàng nghìn năm lịch sử đất nước đoàn kết chống thù trong giặc ngoài, hun đúc từ nhiều thế hệ tạo nên những giá trị văn hóa, tinh thần tiêu biểu của dân tộc. Đó là sự cần cù, kiên trì, nhân ái, vị tha, tinh thần quật cường, đoàn kết của con người Việt Nam qua các thời kỳ phong kiến, thời kỳ Pháp thuộc, thời kỳ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 cho đến 8
  16. ngày nay. Xuất phát từ bối cảnh lịch sử đó, ở nước ta, quyền con người được hiểu là “những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế” [54, tr.42]. Như vậy, từ khái niệm mang cấp độ quốc tế đến khái niệm mang cấp độ quốc gia, mà ở đây là nước Việt Nam, cho thấy dù nhìn quyền con người ở góc độ nào và cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ; là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và trong mọi giai đoạn lịch sử. 1.1.2. Khái niệm người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự Tố tụng hình sự là quá trình tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Quá trình đó bao gồm nhiều hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án; của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, của người tiến hành tố tụng và người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong việc điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Nhiệm vụ của tố tụng hình sự là phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam đã thể hiện rõ tư tưởng “lấy dân làm gốc”, đáp ứng yêu cầu bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý kiên quyết và triệt để mọi hành vi phạm tội. Tuy nhiên, hoạt động tố tụng hình sự nói riêng, hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung trong bất cứ lĩnh vực nào cũng sẽ không tránh khỏi những sai sót nhất định: 9
  17. Xã hội hiện đại của chúng ta ngày càng đòi hỏi sự an toàn. Đòi hỏi đó làm phát sinh tư tưởng cho rằng mọi rủi ro đều phải được bảo hiểm, rằng mọi thiệt hại phải được bồi thường nhanh chóng và toàn bộ, rằng xã hội không chỉ phải bồi thường những thiệt hại do chính xã hội gây ra mà còn phải bồi thường những thiệt hại mà xã hội đã không ngăn ngừa được [27, tr.772]. Theo đó, xã hội càng hiện đại, văn minh càng đỏi hỏi tính trách nhiệm cao hơn, đầy đủ và toàn diện hơn đối với các chủ thể, trong đó có Nhà nước. Nhà nước phải là hiện thân, là mẫu hình của tính trách nhiệm toàn vẹn nhất trong xã hội. Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động TTHS thì vấn đề quan trọng phải xác định đúng đối tượng được bồi thường. Oan theo nghĩa thông thường là “bị quy cho tội mà bản thân không phạm, phải chịu sự trừng phạt mà bản thân không đáng phải chịu” [64, tr.744] hay theo Từ điển Tiếng Việt “oan” là một người “bị quy tội không đúng, phải chịu sự trừng phạt một cách sai trái, vô lý” [65, tr.1269]. Còn dưới góc độ khoa học tố tụng hình sự, có nhận thức như sau: - Người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra được bồi thường thiệt hại bao gồm: - Người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự hủy bỏ quyết định tạm giữ vì người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; - Người bị tạm giam mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự hủy bỏ quyết định tạm giam vì người đó không thực hiện hành vi phạm tội; - Người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, đã bị kết án tử hình mà có bản án, quyết định của Tòa án có thẩm quyền xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội; 10
  18. - Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án ngoài các trường hợp quy định trên đây mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội (người bị khởi tố nhưng được tại ngoại) [60, tr. 54]. Một khái niệm cũng tương đối gần với khái niệm “oan” mà hay được nhắc tới đó là khái niệm “sai”. Theo từ điển tiếng Việt thì “sai” được hiểu là “không phù hợp với cái hoặc điều có thật, mà có khác đi”. Trong TTHS, việc giải quyết vụ án sai là trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng (viết tắt CQTHTT), người tiến hành tố tụng giải quyết vụ án một cách không khách quan, trái với những quy định của pháp luật. Nói cách khác “sai” trong TTHS được hiểu là tính chất của hoạt động hoặc chất lượng giải quyết vụ án hình sự của CQTHTT, người tiến hành tố tụng không đúng với qui định của pháp luật, không đáp ứng được yêu cầu khách quan trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Hiện nay trong hệ thống pháp luật nước ta chưa có một văn bản nào xác định các tiêu chí đánh giá oan, sai trong các giai đoạn TTHS. Theo giải thích trên thì khái niệm “sai” có phạm vi rộng hơn so với khái niệm “oan”, việc làm “oan” người vô tội luôn là hệ quả của “sai”. Không phải trường hợp hành vi „sai‟ của CQTHTT đều dẫn đến việc làm “oan” người vô tội. Tuy nhiên, việc phân biệt thế nào là “oan”, “sai” trong hoạt động TTHS là một vấn đề phức tạp cả về mặt lý luận cũng như pháp luật thực định [9]. Thực tiễn lập pháp cho thấy, pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng không phân biệt hai khái niệm “oan”, “sai” mà chỉ quy định các trường hợp được bồi thường thiệt hại. Luật TNBTCNN chỉ quy định các đối tượng bị “oan” mới được yêu cầu BTTH; còn các trường hợp bị “sai” không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật. Có tác giả cho rằng, trường hợp công dân bị truy tố, xét xử, kết án theo một tội danh nặng hơn so 11
  19. với tội danh trên thực tế đã phạm hoặc bị tòa án áp dụng hình phạt nặng hơn so với hình phạt mà hành vi phạm tội của họ phải thực hiện và bản án đã được tòa án cấp trên sửa theo hướng nhẹ hơn về tội danh hoặc hình phạt mà tòa án cấp dưới đã xét xử thuộc nội hàm của khái niệm “oan” trong TTHS là chưa có tính thuyết phục vì không phù hợp với thực tiễn lập pháp của các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng; trường hợp này cũng không nằm trong phạm vi được bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật TNBTCNN. Hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm và phạm vi của “oan” như sau: - Thứ nhất, “oan” là trường hợp người không thực hiện hành vi phạm tội nhưng bị tạm giữ, tạm giam, bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nội diên của khái niệm này chỉ ra rằng chỉ những người bị tạm giữ, tạm giam, bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLTTHS nhưng sau đó được xác định rằng họ không thực hiện hành vi phạm tội hoặc hành vi của họ không cấu thành tội phạm mới được xác định là “oan”. - Thứ hai, người bị tạm giữ oan là người hoàn toàn không có hành vi vi phạm pháp luật (bao gồm luật hình sự và các ngành luật khác: luật hành chính, lao động, dân sự, kinh tế…). Trường hợp bị tạm giam oan, thi hành án oan là người đã có hành vi có dấu hiệu tội phạm nhưng chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm. - Thứ ba, người bị tạm giữ oan là người thực tế không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự; còn các hành vi vi phạm khác như vi phạm pháp luật dân sự, kinh tế… không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật TNBTCNN. Đối với người bị tạm giam, bị thi hành án oan là những người có hoặc không có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, đã được các cơ quan THTT ra quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì không phạm tội do không cấu thành tội phạm hoặc được Tòa án tuyên bố không phạm tội. 12
  20. Từ những nhận định trên, có thể hiểu: Oan trong TTHS là việc một người trên thực tế không thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, không cấu thành tội phạm nhưng đã bị các CQTHTT áp dụng biện pháp ngăn chặn, bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. 1.1.3. Khái niệm cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự Bồi thường nhà nước là khái niệm xuất hiện từ thời kỳ cận đại, sau khi giai cấp tư sản làm cách mạng dành được chính quyền vào thế kỷ XVIII ở phương Tây. Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước với tính cách là một loại hình trách nhiệm pháp lý đặc biệt, chỉ xuất hiện trong những điều kiện và có cơ sở pháp luật cụ thể. Nhà nước, với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật, có những quyền và nghĩa vụ nhất định, đồng thời phải chịu những hậu quả pháp lý phát sinh từ những quan hệ pháp luật đó. Nếu Nhà nước và các cán bộ, công chức trong quá trình thực thi công vụ có hành vi vi phạm pháp luật, gây tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức thì Nhà nước phải chịu trách nhiệm bồi thường. Theo đó, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được phát sinh từ các hoạt động mang tính công quyền, do cơ quan nhà nước hoặc các cá nhân, tổ chức nhân danh Nhà nước thực hiện [47, tr. 15-17]. Cơ chế bồi thường nhà nước bản chất là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong pháp luật dân sự. Việc xác định mức độ thiệt hại cũng như mức bồi thường đều mang bản chất của quan hệ dân sự, dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện thỏa thuận, định đoạt giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại. Như vậy, mặc dù bản chất của quan hệ giữa Nhà nước và công dân là quan hệ pháp luật công nhưng quan hệ bồi thường thiệt hại của Nhà nước phát sinh từ quan hệ công lại mang bản chất của quan hệ dân sự. Như vậy, cơ sở của chế định bồi thường nhà nước dựa trên các quyền con người, quyền của công dân, được pháp luật ghi nhận, bảo vệ và bảo đảm thực hiện bởi Nhà 13

 

TOP Download

Tài liệu đề nghị cho bạn:

popupslide2=2Array ( )