Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7
Mục đích chính của đề tài là nhằm đưa ra hướng giải quyết một số thắc mắc về kiến thức và phương pháp dạy học, để từ đó bản thân có thêm kinh nghiệm dạy tốt phần văn bản nhật dụng, đồng thời cũng đáp ứng được nhu cầu đổi mới chương trình Ngữ văn lớp 7 ở trường THCS hiện nay. » Xem thêm
Tóm tắt nội dung tài liệu
- Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7
MỤC LỤC
Trang
TT NỘI DUNG
1 Trang bìa
2 Mục lục 1
3 Phần thứ nhất: Mở đầu 2
4 Phần thứ 2: Giải quyết vấn đề 4
5 I. Cơ sở lý luận 4
6 II. Thực trạng vấn đề 4
7 III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 6
8 IV. Tính mới của giải pháp 22
9 V. Hiệu quả SKKN 22
10 III. Phần kết luận và kiến nghị 24
1
Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương Trường: THCS Buôn Trấp
- Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
Có thể nói trong trường kì lịch sử loài người, môn Văn là một môn học
có lịch sử lâu đời nhất trong các môn học. Trong bất kì giai đoạn nào, môn
học này cũng hướng tới các nhiệm vụ chủ yếu sau đây :
Thứ nhất, giúp người học biết đọc, biết viết (biết chữ)
Thứ hai giúp người đọc thấy được cái hay, cái đẹp và biết cảm nhận,
thưởng thức cái hay, cái đẹp của văn chương, nghệ thuật.
Thứ ba, thông qua hai nhiệm vụ trên mà mở mang tri thức, giáo dục tư
tưởng, tình cảm và rèn luyện nhân cách cho người học sinh.
Ngày nay, khi đất nước bước sang một giai đoạn mới, mục tiêu của
giáo dục nhà trường phổ thông đã xác định rõ trong luật giáo dục:
“ Mục tiêu giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản nhằm hình thanh nhân
cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm
công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao
động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc” (Luật Giáo dục – Điều 23)
Do yêu cầu gắn với cuộc sống hiện tại nên chương trình Ngữ văn trung
học cơ sở có đưa vào một số văn bản nhật dụng. Đó là những bài viết có tính
chất gần gũi, bức thiết đôí với cuộc sống trước mắt của con người và cộng
đồng trong xã hội hiện đại như : thiên nhiên, môi trường, năng lượng, dân số,
quyền trẻ em, ma tuý và các tác hại của các tệ nạn xã hội…Nhằm đưa học
sinh trở lại với những vấn đề vừa quen thuộc gần gũi hằng ngày vừa có ý
nghĩa lâu dài trọng đại mà tất cả các dân tộc cùng quan tâm đến, giúp các em
“hòa nhập với xã hội”, thấy được vai trò và nhiệm vụ của mình đối với xã
hội . Từ đó có tinh thần thái độ học tập đúng đắn hơn.
Muốn chuyển tải một cách tốt nhất những kiến thức cơ bản đó đến
người học. Người giáo viên phải nắm chắc kiến thức, hiểu biết sâu rộng,
vốn sống phong phú. Ai cũng hiểu nếu không nắm vững tri thức thì không thể
dạy tốt được nên người giáo viên bao giờ cũng chú tâm vào việc đào sâu kiến
2
Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương Trường: THCS Buôn Trấp
- Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7
thức, suy ngẫm, tìm tòi nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu các đối tượng học
sinh.
Xuất phát từ nhận thức đó, tôi cảm thấy rằng đúng là cần trăn trở về
việc giảng dạy các văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn THCS.
Đặc biệt là cụm văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7. Tôi
mạo muội viết đề tài: “Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong
chương trình Ngữ văn lớp 7”. Nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả giảng dạy
và phát huy tính chủ động, sáng tạo, linh hoạt của học sinh trong việc tiếp
nhận thông tin, khám phá giá trị của các văn bản nhật dụng .
Dẫu có niềm đam mê nhưng vốn kiến thức về chuyên môn còn hạn
hẹp nên khó tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong được sự góp ý của cấp trên
và đồng nghiệp.
II. Mục đích (mục tiêu) nghiên cứu:
Có thể nói: Chương trình Ngữ văn THCS được xây dựng theo tinh
thần tích hợp. Các văn bản được lựa chọn theo tiêu chí Kiểu văn bản( Tập
làm văn) và tương ứng với kiểu văn bản là Thể loại tác phẩm(văn học). Điều
này có nghĩa là việc lựa chọn các văn bản căn cứ trước hết vào tính chất tiêu
biểu của kiểu văn bản và thể loại tác phẩm. Song bên cạnh đó còn có một
nội dung mà chương trình Ngữ văn quan tâm là sự cập nhật, gắn kết với đời
sống, đưa học sinh trở lại với những vấn đề vừa quen thuộc gần gũi hàng
ngày, vừa có ý nghĩa lâu dài, trọng đại mà tất cả các dân tộc cùng quan tâm
hướng tới … Đó chính là hệ thống các văn bản nhật dụng.
Nhưng để truyền đạt những kiến thức cơ bản và đạt được mục đích
đã xác định thì mỗi người hoàn toàn có thể lựa chọn cho mình một con đường
với những cách thức và các thao tác sư phạm của riêng mình. Con đường riêng
ấy được hình thành từ những suy nghĩ của cá nhân về nội dung bài dạy cũng
như đối tượng học sinh.
Cho nên trong gần 20 năm giảng dạy ở trường THCS Buôn Trấp, bản
thân tôi đã xác định mục đích nghiên cứu của mình là làm sao để học sinh
khối 7 mà mình đã, đang và sẽ giảng dạy thông qua các bài học cụ thể của
nhóm văn bản nhật dụng mà hiểu biết một cách sâu sắc những vấn đề về
quyền trẻ em, nhà trường, phụ nữ (người mẹ) và vấn đề văn hóa giáo dục.
3
Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương Trường: THCS Buôn Trấp
- Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7
Ngoài ra còn nhằm góp phần tạo thêm sự hứng thú và nâng cao hiệu quả của
giờ lên lớp của mỗi giáo viên.
Mục đích chính của đề tài là nhằm đưa ra hướng giải quyết một số
thắc mắc về kiến thức và phương pháp dạy học, để từ đó bản thân có thêm
kinh nghiệm dạy tốt phần văn bản nhật dụng, đồng thời cũng đáp ứng được
nhu cầu đổi mới chương trình Ngữ văn lớp 7 ở trường THCS hiện nay.
Cũng có thể đề tài này chỉ là một tài liệu dùng để tham khảo để phục
vụ cho việc giảng dạy văn bản nhật dụng ở khối 7 THCS
4
Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương Trường: THCS Buôn Trấp
- Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7
Phần thứ 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận của vấn đề
1.1 “Văn bản nhật dụng không phải là một khái niệm chỉ thể loại hoặc
chỉ kiểu văn bản. Nói đến văn bản nhật dụng là nói đến tính chất của nội
dung văn bản. Đó là những bài viết có tính chất gần gũi, bức thiết đôí với
cuộc sống trước mắt của con người và cộng đồng trong xã hội hiện đại như :
thiên nhiên, môi trường, năng lượng, dân số, quyền trẻ em, ma tuý và các tác
hại của các tệ nạn xã hội… Bởi vậy, văn bản nhật dụng có thể dùng tất cả
các thể tài cũng như các kiểu văn bản” ( Ngữ văn 6 tập hai)
1.2 Bởi vậy mà những văn bản đều được lựa chọn theo những đề tài
với những vấn đề có tính thời sự rất cao và cập nhật với đời sống hiện đại.
Chính vì vậy mà các văn bản nhật dụng có tính lâu dài cùng với sự phát triển
của lịch sử nhân loài.
Chẳng hạn như vấn đề bảo vệ di sản văn hoá, chống chiến tranh hạt
nhân, môi trường, dân số, vấn đề giáo dục trẻ em, chống hút thuốc lá....Tất
cả đó đều là những vấn đề nóng bỏng của hôm nay nhưng không thể ngày
một ngày hai mà giải quyết được.
Giá trị văn chương không phải là yêu cầu cao nhất nhưng đó vẫn là một
yêu cầu quan trọng. Các văn bản nhật dụng nó vẫn thuộc về một kiểu văn
bản nhất định: kể chuyện, miêu tả, thuyết minh, nghị luận hay điều hành....
có nghĩa là văn bản nhật dụng có thể sử dụng mọi thể loại mọi kiểu văn bản.
Hơn nữa đối với các em học sinh THCS các em mới lần đầu tiên làm
quen với loại văn bản nhật dụng nên có phần còn bỡ ngỡ. Chưa nói đến một
số ít giáo viên ở một số trường vẫn chưa thực sự quan tâm thích đáng đến
phần văn bản này. Do đó mà việc vận dụng và đổi mới phương pháp trong
5
Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương Trường: THCS Buôn Trấp
- Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7
tiết dạy văn bản nói chung và văn bản nhật dụng nói riêng có một vai trò vô
cùng quan trọng. Với các em khi học văn bản nhật dụng không chỉ là để mở
rộng hiểu biết toàn diện mà còn nhằm tạo cho các em thực hiện nguyên tắc là
để các em hoà nhập với cuộc sống xã hội và rút ngắn khoảng cách giữa nhà
trường và xã hội.
II. Thực trạng vấn đề:
1/ Thực trạng của vấn đề: Thực tế khi đứng trên lớp trực tiếp giảng
dạy cùng với sự đóng góp ý kiến trao đổi với các đồng nghiệp bản thân tôi
nhận thấy khi khai thác giảng dạy văn bản nhật dụng giáo viên thường mắc
phải một số hạn chế như sau:
Giáo viên coi những văn bản này là một thể loại cụ thể giống như
truyện, kí…. Trong khi đó bản thân nó lại không phải. Vì thế giáo viên chỉ chú
ý dựa vào các điểm của thể loại như: cốt truyện, nhân vật, tình huống, sự
việc ghi chép để phân tích nội dung.
Giáo viên thường chú ý khai thác và bình giảng trên nhiều phương diện
của sáng tạo nghệ thuật như: cốt truyện, nhân vật, cách kể mà chưa chú
trọng đến vấn đề xã hội đặt ra trong văn bản gần gũi với học sinh.
Ví dụ khi dạy văn bản Cuộc chia tay của những con búp bê, GV chỉ
chú ý truyền tải nội dung, cốt truyện mà chưa giúp học sinh liên hệ với chính
bản thân mình nếu xãy ra vấn đề đó đối vói gia đình, bạn bè và những người
xung quanh mình.
Hơn nữa giáo viên quá nhấn mạnh yêu cầu gắn kết tri thức trong văn
bản với đời sống mà giáo viên chưa chú ý nhiều tới liên hệ thực tế dẫn đến
khai thác kiển thức chưa đầy đủ.
Một mặt vốn kiến thức của giáo viên còn hạn chế, thiếu sự mở rộng.
Giáo viên chưa vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học cũng như các
biên pháp tổ chức dạy học nhằm gây hứng thú cho học sinh. Trong tiết học
thường khô khan, thiếu sinh động và chưa kích thích hứng thú và sự say mê
yêu thích của các em khi học văn.
Phương tiện dạy học cũng đóng một vai trò quan trọng quyết định chất
lượng giờ dạy:ở đây giáo viên chỉ có thể dùng bảng phụ, phiếu học tập đó là
6
Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương Trường: THCS Buôn Trấp
- Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7
do cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu. Trong khi đó có một số văn bản
nếu học sinh được xem các tranh ảnh minh hoạ, đoạn băng ghi hình, sơ đồ tư
duy thì sẽ làm cho tiết học sinh động hơn nhiều. Chẳng hạn khi dạy bài Ca
Huế trên sông Hương thì hầu như giáo viên không chú ý đến vấn đề này.
Giáo viên còn có một tâm lí là phân vân không biết có nên sử dụng
phương pháp giảng bình khi dạy những văn bản này hay không và nếu có thì
sử dụng ở mức độ nào?
Giờ học tẻ nhạt không thực sự thu hút sự hứng thú của học sinh. Bản
thân các em chưa biết liên hệ thực tế, chưa biết giải quyết vấn đề nêu ra
trong văn bản nhật dụng.
2/Nguyên nhân của thực trạng:
+ Số lượng văn bản nhật dụng chiếm số lượng không nhiều (khoảng
10% trong chương trình sgk THCS) nhưng trước đó lí luận dạy học chưa từng
đặt vấn đề về phương pháp dạy học văn bản nhật dụng. Bởi vậy nên giáo
viên ít có kinh nghiệm, giờ giảng dạy còn lung túng về phương pháp.
+ Việc sử dụng máy chiếu của giáo viên chưa thực sự nhuần nhuyễn,
chưa được đều đặn nên việc mở rộng kiến thức cho các em bằng hình ảnh,
đoạn phim, bài dân ca Bắc Bộ… còn rất hạn chế.
+ Giáo viên chưa xác định đúng mục tiêu đặc thù của bài học văn bản
nhật dụng.
+ Giáo viên ít sưu tầm các tài liệu liên quan đến văn bản nhật dụng để
bổ sung cho bài học thêm phong phú.
+ Một nguyên nhân có thể nói là khó có thể giải quyết ngay được là
việc học của học sinh. Đa phần học sinh của trường chúng tôi là con nông
dân, sự quan tâm của cha mẹ đến việc học của con cái chưa thực sự tốt nhiều
gia đình đi làm ăn xa không có điều kiện quan tâm đến các em. Nhiều em
không chăm học, về nhà không học bài, không chuẩn bị bài trước khi đến lớp
dẫn đến không hiểu bài. Điều đó đã làm cho giáo viên càng gặp khó khăn hơn.
+ Đồng thời hệ thống văn bản nhật dụng trong sách giáo khoa ngữ văn
lớp 7 lại tồn tại dưới nhiều kiểu văn bản khác nhau. Đó có thể là truyện
ngắn (Cuộc chia tay của những con búp bê), một bài bút kí(Ca Huế trên sông
7
Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương Trường: THCS Buôn Trấp
- Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7
Hương)Cũng có thể là một bài báo biểu cảm(Cổng trường mở ra), Bức
thư(Mẹ tôi). Năm học 20142015 bản thân tôi được phân công giảng dạy môn
Ngữ văn lớp 7 từ thực trạng nêu trên nên kết quả của việc học văn bản nhật
dụng của năm 2014 2015 được thể hiện qua bài kiểm tra 15 phút như sau (cụ
thể tôi dạy 3 lớp 7a4, 7a7, 7a8).
Lớp Điểm 8> 10 5> 7 1>4
7a4, 7a7, 7a8 13 em 35 em 50 em
(TS: 98)
Lưu ý: Điểm khá, Giỏi phần lớn đều nằm ở lớp 7a8.
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
1 / Một số vấn đề cơ bản cần chú ý khi dạy các văn bản nhật dụng:
1.1) Dạy loại văn bản này là “ Tạo điều kiện tích cực để thực hiện
nguyên tắc giúp học sinh hòa nhập với xã hội”. Nên các đề tài được chọn dĩ
nhiên phải có tính chất thời sự, song đó cũng phải là những đề tài có liên quan
đến “Những vấn đề xã hội có ý nghĩa lâu dài”.
Do đó dạy văn bản nhật dụng, trước hết phải từ cái trước mắt, có tính
cập nhật và thời sự, chỉ ra ý nghĩa lâu dài muôn thuở; từ cái của một nơi, chỉ
ra điều của mọi nơi; từ một phương diện, chỉ ra mối liên quan của nhiều
phương diện. Do chức năng, đề tài, tính chất của văn bản, GV có quyền và
cần cho HS liên hệ tới một phạm vi rộng rãi mà không bị quá gò bó trong
khuôn khổ văn chương. Hoàn toàn có thể cho HS liên hệ trực tiếp vấn đề
đang học với tình hình địa phương và khi cần, có thể sử dụng một giờ dành
cho chương trình địa phương để tiến hành các hoạt động điều tra, thống kê,
khảo sát.
1.2) Ở phần chú thích, bên cạnh việc giải nghĩa, còn có những thông tin
khác về lịch sở, xã hội, chính trị, … Cần lưu ý HS đọc kĩ cả những chú thích
đó mới hiểu được một cách đầy đủ, sâu sắc ý nghĩa của văn bản.
1.3) Không nên quan niệm đây là những sáng tác tiêu biểu cho các tác
phẩm văn học của một thời kì hay một tác giả nào đấy để đặt ra hay đòi hỏi
qua cao yêu cầu về nghệ thuật của văn bản. Mặc dù các văn bản nhật dụng
trong chương trình Ngữ văn THCS có cách viết trong sáng, chuẩn mực, nhưng
8
Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương Trường: THCS Buôn Trấp
- Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7
có lẽ nhà biên soạn chủ yếu vẫn là chú ý đến nội dung chính đặt ra trong tác
phẩm ấy. Vì vậy khi dạy học các văn bản nhật dụng , GV nên tập trung khai
thác các vấn đề nội dung tư tưởng đặt ra ở mỗi văn bản; từ đó mà liên hệ ,
giáo dục tư tưởng, tình cảm và ý thức cho HS trước các vấn đề mà cả xã hội
đang quan tâm.
2) Nh
ững lưu ý về nội dung khi dạy các văn b
ản nhật dụng trong sách
giáo khoa Ngữ văn 7:
2.1) Trong chương trình Ngữ văn 7 gồm 4 văn bản nhật dụng sâu đây:
- Cổng trường mở ra Của Lí Lan.
- Mẹ tôi của Etmônđôđơ Amixi trong Những tấm lòng cao cả.
- Cuộc chia tay của những con búp bê của Khánh Hoài.
- Ca Huế trên sông Hương của Hà Ánh Minh.
Hai văn bản Cổng trường mở ra Của Lí Lan và Mẹ tôi của Etmôn
đôđơ Amixi nhằm khai thác nội dung người mẹ và nhà trường. Văn bản
Cuộc chia tay của những con búp bê của Khánh Hoài thuộc đề tài quyền trẻ
em. Văn bản cuối là một bài báo giới thiệu một sản phẩm văn hóa nổi tiếng
của một địa danh nổi tiếng với một con sông nổi tiếng: Ca Huế trên sông
Hương của Hà Ánh Minh.
2.2. Nắm chắc đặc điểm và ý nghĩa của các nội dung đặt ra trong mỗi
văn bản nhật dụng để hướng dẫn học sinh tự liên hệ, rút ra được bài học
cho chính bản thân mình. Chẳng hạn:
2.2.1 Cổng trường mở ra là một bài kí được trích từ báo là một bài kí
được trích từ báo Yêu trẻ – thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Lí Lan. Bài
văn ghi lại tâm trạng của một người mẹ trong đêm chuẩn bị cho con trước
ngày khai trường vào lớp một. Không có sự việc, không có cốt truyện, chủ
yếu là tâm trạng hồi hộp, phấp phỏng đón chờ ngày khai trường. Người mẹ
không ngủ, phần vì lo chuẩn bị cho con, nhưng phần vì cả tuổi thơ áo trắng
đến trường của chính mình sống dậy. “Cứ nhắm mắt lại là mẹ dường như
nghe tiếng đọc trầm bổng : “Hằng năm cứ vào cuối thu… Mẹ tôi âu yếm
nắm lấy tay tôi, dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp”
9
Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương Trường: THCS Buôn Trấp
- Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7
Khi dạy bài này, GV chủ yếu hướng dẫn HS tìm hiểu và phân tích tâm
trạng của người mẹ là chính. Qua tâm trạng này mà thấy được tình cản và
tấm lòng của bà mẹ trước ngày con vào lớp một. Từ đó mà HS liên hệ với
chính bản thân mình.
2.2.2 Mẹ tôi là một bài văn mang tính truyện nhưng lại dưới dạng một
bức thư của nhà văn Étmônđôđơ Amixi( Nhà văn Italia). có chuyện
xãy ra nhưng phần chính vẫn là tâm trạng và những suy nghĩ của người bố
qua bức thư gửi cho con – người đã phạm lỗi. Qua bức thư, người đọc thấm
thía công lao và tình cảm của người mẹ có ý nghĩa như thế nào đối với mỗi
người con. Do tập trung đề cao người mẹ và nhấn mạnh ý nghĩa giáo dục, có
những chỗ tác giả diễn đạt khá cực đoan, ví dụ; “ Bố rất yêu con, con ạ, con
là niềm hi vọng tha thiết nhất của đời bố, nhưng thà rằng bố không có con,
còn hơn là thấy con bội bạc với mẹ”, trong quá trình phân tích nếu để nguyên
như thế hoặc không khéo léo học sinh cảm thấy nặng nề và có thể hiểu
nhầm tấm lòng của người cha rằng yêu vợ hơn con nên nười giáo viên phải
phân tích, bình luận và chỉ rõ cho các em thấy tình cảm và sự nghiêm khắc
của người cha trong việc giáo dục con.
GV hướng dẫn HS tìm hiểu và phân tích văn bản, từ đó mà rút ra nội
dung và ý nghĩa của bài học, tự liên hệ và kiểm điểm về những thái độ và tình
cảm của chính bản thân đối với bố mẹ mình.
2.2.3 Cuộc chia tay của những con búp bê của Khánh Hoài tuy là một
truyên ngắn, nhưng khi vào sách Ngữ văn, văn bản này vẫn chủ yếu được
khai thác theo tinh thần của một văn bản nhật dụng. Đây là văn bản thể hiện
vấn đề quyền trẻ em, một trong những nội dung chính của mảng văn bản
nhật dụng trong chương trình Ngữ văn 7. Trẻ em có rất nhiều quyền. Điều đó
đã được ghi trong công ước quốc tế về quyền trẻ em của Liên hợp quốc
1989. Tuy vậy đề tài về quyền trẻ em thì không phải nhiều. Các tác giả
thường khai thác ở một số vấn đề như: Nỗi khổ về cuộc sống vật chất và
nỗi đau về tinh thần. Một trong những nỗi đau về tinh thần đó là nỗi đau sống
thiếu cha, thiếu mẹ. Cha mẹ không may mất đi là một nỗi đau đã đành. Cha
mẹ vẫn sống mà con cái vẫn bị chia lìa xa cách mới là điều đáng nói. Nỗi đau
này do chính con người tạo nên cho bản thân và con cái mình. Truyện Cuộc
chia tay của những con búp bê viết về vấn đề này nhưng qua câu chuyện
10
Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương Trường: THCS Buôn Trấp
- Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7
người đọc còn thấy được những tình cảm anh em trong sáng, thân thiết, sự
gắn bó máu thịt và tấm lòng nhân hậu, vị tha của những em bé chẳng may rơi
vào cảch hạnh phúc gia đình tan vỡ. Truyện ngắn này đã được giải nhì trong
cuộc thi thơ văn viết về quyền trẻ em do viện khoa học giáo dục và tổ chức
cứu trợ trẻ em Thuỵ Điển tổ chức năm 1992. Khi đọc văn bản này, bản thân
tôi cũng hơi băn khoăn là liệu vấn đề khá tế nhị và phức tạp của người lớn
(chuyện li hôn) mà cho HS lớp 7 biết như thế có quá sớm không? Sau khi trao
đổi với đồng nghiệp tôi mới nhận thấy việc dạy văn bản này cho lứa tuổi này
không có gì đáng lo lắng vì:
Thứ nhất, vấn đề hạnh phúc gia đình bị đổ vỡ, bố mẹ li hôn, con cái
chịu nhiều đau đớn, thua thiệt,… là một sự thật không nên né tránh trong xã
hội. Các phương tiện thông tin đại chúng ( sách, báo, phát thanh, truyền hình,
…)cũng thường xuyên khai thác vấn đề này. Vì thế đây không còn là câu
“chuyện kín” cần phải giữ gìn, “che đậy” với các em.
Thứ hai, nội dung chính của truyện Cuộc chia tay của những con búp
bê không tập trung khai thác và miêu tả trực tiếp cảnh đổ vỡ giữa cha mẹ
(như xô xát, mắng chửi, đập phá,…) mà chủ yếu tập trung khắc hoạ những
tình cảm và tấm lòng vị tha, nhân hậu, trong sáng và cao đẹp của hai em bé.
Chính điều này có ý nghĩa giáo dục không chỉ với các em mà cho cả những
người đã là cha, là mẹ. Cũng chính điều này cùng với cách kể chuyện chân
thật đã tạo cho truyện một sức truyền cảm khá mạnh, khiến cả người dạy
lẫn người học rất xúc động. Do đó khi dạy, GV cần tập trung khai thác nội
dung này là chính.
2.2.4 Ca Huế trên sông Hương của Hà Anh Minh nhằm giới thiệu
những sản phẩm văn hố truyền thống của dân tộc. Bài văn viết về một sản
phẩm văn hố nổi tiếng của một địa danh nổi tiếng với một con sông nổi
tiếng: Ca Huế trên sông Hương. Đây không phải là một truyện ngắn, một
sáng tác có tính hư cấu mà chỉ là một bút kí, ghi chép một nét sinh hoạt văn
hóa: Ca Huế trên sông Hương. Qua cảnh sinh hoạt này mà giới thiệu những
vẻ đẹp của cảnh và người xứ Huế; giới thiệu những hiểu biết của tác giả về
nuồn gốc, về sự phong phú của cac làn điệu dân ca Huế.
Bài văn vừa tả cảnh ca Huế trong một đêm trăng trên dòng sông Hương
thơ mộng, vừa giới thiệu những làn điệu dân ca Huế, vì thế không thể chia bố
11
Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương Trường: THCS Buôn Trấp
- Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7
cục một cách rõ ràng. Tuy vậy GV có thể tập trung khai thác mấy nội dung cơ
bản sau:
- Vẻ đẹp phong phú, đa dạng của các làn điệu dân ca Huế ( thể hiện
qua tên gọi các làn điệu, qua nhạc cụ và cách chơi)
- Vẻ đẹp của cảnh ca Huế trong đêm trăng thơ mộng trên dòng sông
Hương.
- Nguồn gốc của một số làn điệu ca Huế.
Có thể do nội dung và tính chất của bài viết mà tác giả nhắc tới rất
nhiều tên các làn điệu ca Huế, nhạc cụ và các “ngón đàn” của ca công. Khi
học, GV không nên bắt các em phải nhớ, phải hiểu hết các chú thích. Nên chốt
lại vấn đề bằng việc khái quát: Ca Huế đa dạng và phong phú đến nỗi chúng
ta khó mà nhớ hết được tên các làn điệu, tên các nhạc cụ và các ngón đàn của
ca công.
Bài học này nằm gần với phần chương trình Ngữ văn địa phương(tuần
29) và hoạt động Ngữ văn (tuần 31) vì thế GV cần liên hệ nội dung bài học
này với các nội dung sẽ học trong các tuần đó. Ví dụ:
- Từ bài văn đề nghị các em liên hệ với các làn điệu dân ca nói riêng và
các sản phẩm văn hóa tinh thần nói chung của quê hương mình.
- Thử sưu tầm và giới thiệu một băng, đĩa nhạc có ca Huế, hoặc các
bài hát hiện đại phỏng theo những điệu ca Huế.
- Thử tập hát một vài làn điệu ca Huế hoặc giới thiệu một làn điệu
dân ca của quê hương mình.
- Viết bài tập tìm hiểu về các vùng dân ca nổi tiếng của dân tộc như:
dân ca quan họ Bắc Ninh, dân ca Nghệ Tĩnh, dân ca Nam bộ, dân ca
Liên khu Năm,…
3 / Những lưu ý về phương pháp (phương pháp chủ động) khi dạy văn
bản nhật dụng:
Tinh thần chung của PPDH mới là: Tôn trọng HS, tránh áp đặt, linh
hoạt, chủ động và sáng tạo. HS tự mình tiếp xúc vơíù các văn bản, tự mình
suy nghĩ khám phá cái hay, cái độc đáo của tác phẩm dưới sự hướng dẫn của
thầy. Do đó GV cần lưu ý:
12
Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương Trường: THCS Buôn Trấp
- Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7
3.1/ Xác định mục tiêu dạy học
Đối với tác phẩm văn chương, hoạt động đọc hiểu là việc đọc nghiền
ngẫm, phân tích, cảm thụ những vẻ đẹp của nghệ thuật ngôn từ, để từ đó
hiểu được những khái quát về đời sống tác giả. Nghĩa là người đọc tự mình
khám phá và rung động về ý nghĩa đời sống và giá trị thẫm mĩ của tác phẩm.
Đó chính là mục tiêu kiến thức của bài học văn bản nghệ thuật. Còn đối với
văn bản nhật dụng thì mục tiêu kiến thức của bài học sẽ nhấn vào nội dung
tư tưởng của văn bản, tức là nắm bắt vấn đề xã hội gần gũi, bức thiết, mang
tính thời sự hơn là đi sâu vào khám phá giá trị hình thức của văn bản.Như vậy
việc xác định mục tiêu kiến thức của bài học văn bản nhật dụng phải bắt đầu
từ sự rõ ràng trong việc phân loại văn bản.
3.2/ GV cần biết cách đặt những câu hỏi mở, khuyến khích HS suy
nghĩ, nghe HS trả lời một cách tin cậy và thân ái. Cần huy động mọi HS ở các
trình độ khác nhau tham gia vào việc trả lời câu hỏi và đóng góp ý kiến. Ví
dụ: Khi dạy văn bản Cổng trường mở ra, GV đặt câu hỏi “ Kết thúc bài văn
bà mẹ nói: “ Bước qua cánh cổng trường là một thế giới kì diệu sẽ mở ra” .
Em đã trải qua thời lớp Một, bây giờ em hiểu thế giới kì diệu đó là những gì?
Đây là câu hỏi mở, nhằm làm nổi bật lên vai trò và vị trí của nhà
trường đối với cuộc đời mỗi con người. HS có thể trả lời theo cách riêng của
mình. GV chỉ nên định hướng, gợi mở một vài điểm thật cần thiết như : Nhà
trường đã mang lại cho em những gì về tri thức, về tình cảm, tư tưởng, đạo
lí, về tình bạn, tình thầy trò,…?
3.2/ Sử dụng không gian nhà trường, lớp học, dụng cụ học tập như
bảng phụ một cách sáng tạo để tổ chức cho HS thảo luận cũng như tiến hành
các hoạt động khác theo nhóm. Ví dụ: Khi dạy văn bản “Mẹ tôi”, GV đặt câu
hỏi: Theo em, tại sao người bố không nói trực tiếp với Enricô mà lại viết
thư?
Câu hỏi này đòi hỏi HS phải suy luận nhiều. Có thể có nhiều cách trả
lời khác nhau nên các em cần bàn bạc và thống nhất ý kiến trong nhóm. Mỗi
nhóm lại có thể có mỗi cách suy luận khác nhau, miễn là hợp lí. Tổng hợp ý
của các nhóm sẽ là: Tình cảm sâu sắc thường tế nhị và kín đáo nhiều khi
không nói trực tiếp được. Hơn nữa viết thư là chỉ nói riêng cho người mắc lỗi
13
Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương Trường: THCS Buôn Trấp
- Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7
biết, vừa giữ được sự kín đáo, tế nhị, vừa không làm người mắc lỗi mất đi
lòng tự trọng. Đây chính là bài học sâu sắc về cách ứng xử trong cuộc sống
gia đình cũng như trong nhà trường và xã hội.
3.3/ Việc lớp học trở nên ồn ào hơn mỗi khi thảo luận cần được hiểu
là dấu hiệu của hoạt động học tập tích cực chứ không có nghĩa là kỉ luật lớp
học lỏng lẻo. Tránh kiểu “ im lặng nhà thờ”.
3.4/ Lên kế hoạch và chuẩn bị bài giảng sao cho có thể kết hợp các
kiến thức của bài học với các ví dụ tương ứng, sử dụng những kiến thức liên
quan đến tình hình địa phương nơi trường đang đóng cũng như liên hệ với
thực tế cuộc sống hiện nay một cách linh hoạt có tác dụng giúp HS tự rút ra
bài học cho bản thân.
3.5/ Lấy SGK làm chuẩn, cung cấp kiến thức không nên qua nặng nề,
ôm đồm làm phức tạp hóa các vấn đề vốn đơn giản. Biết mười để dạy một
là một tư tưởng đúng, nhất là dạy đúng cái “một” đó. Không nên biết mười
rồi giới thiệu luôn cả mười, có gì thì các thầy cô đều muốn nói hết cho HS.
Đây là một trong những nguyên nhân tạo nên tình trạng “quá tải” không chỉ
đối với HS mà cả đối với GV. Hãy để cho HS tự tìm tòi, phát hiện với lượng
kiến thức vừa sức của các em.
3.6/ Chú ý tính phân hóa trong HS. Đưa ra các bài tập phải đa dạng, có
bài tập mở rộng đối với HS khá và cũng có bài tập đặc biệt dành cho HS yếu
kém. Ví dụ: Khi dạy bài Cuộc chia tay của những con búp bê, GV đặt câu hỏi
: Lời nói và hành động của Thuỷ khi thấy anh chia hai con búp bê “Vệ Sĩ” và
“Em Nhỏ” ra hai bên có gì mâu thuẩn? Theo em có cách nào để giải quyết
mâu thuẩn ấy không? Kết thúc truyện Thuỷ đã lựa chọn cách giải quyết như
thế nào? Chi tiết này gợi lên trong em những suy nghĩ và tình cảm như thế
nào?
Câu hỏi này buộc HS đi sâu vào phân tích một sự việc (hành động) của
nhân vật chính, từ đó thấy được nội dung sâu sắc của truyện. Đây là câu hỏi
khó, GV có thể gợi ý và yêu cầu những HS khá giỏi trong lớp trình bày. Trước
khi chỉ cho các em thấy được vấn đề:
- Mâu thuẫn ở chỗ: một mặt Thuỷ rất giận dữ, không muốn chia rẽ
hai con búp bê, nhưng mặt khác em lại rất thương Thành, sợ đêm
14
Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương Trường: THCS Buôn Trấp
- Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7
đêm không có con vệ sĩ canh giấc ngủ cho anh, nên em rất bối rối sau
khi đã “tru tréo lên giận dữ’.
- Đưa ra tình huống này, nhằm gợi lên ở các em một suy nghĩ: Muốn
giải quyết mâu thuẫn này, chỉ có cách gia đình Thuỷ và Thành phải
đoàn tụ, hai anh em không phải chia tay.
- Cuối truyện, Thuỷ lựa chọn cách để lại con Em Nhỏ gợi lên trong
lòng người đọc lòng thương cảm đối với Thuỷ, thương cảm một em
gái giàu lòng vị tha, thương anh, thương cả những con búp bê, thà
mình chịu chia lìa chứ không để búp bê phải chia tay, mình đành chịu
thiệt thòi để anh luôn có con vệ sĩ gác cho ngủ đêm đêm. Chi tiết này
cũng khiến người đọc thấy sự chia tay của hai con Em Nhỏ và Vệ Sĩ
là rất vô lí, là không nên có.
3.7/ Cần tôn trọng những nhận xét, đánh giá của HS phần nào đồng nghĩa
với việc chúng ta phải chấp nhận rằng ý kiến của chúng ta không phải khi
nào cũng đúng. Người GV khi dạy kiểu bài này chủ yếu là nêu vấn đề, gợi
mở vấn đề để HS tìm tòi. Không áp đặt kết quả có sẵn và vì thế kết quả
phân tích, hiểu và cảm thụ của HS có thể không trùng và không nhất thiết
phải đúng với những gì thầy cô hiểu và cảm nhận về tác phẩm đó. Một ví
dụ: Khi giảng văn bản này ở lớp 7A7, tôi đã nghĩ là chỉ rút ra bài học: Người
lớn và xã hội hãy chăm lo và bảo vệ hạnh phúc của trẻ em. không thể để trẻ
em rơi vào tình cảnh bất hạnh. Trong khi chính các em rút ra rất nhiều bài học
tự nhiên, cảm động, không kém phần sâu sắc:
Anh em phải thương yêu nhau.
Cha mẹ không nên li hôn.
Không được chia rẽ tình cảm anh em, phải để cho anh em ruột thịt
được sống bên nhau dù bất cứ lí do gì.
Người lớn phải tôn trọng, lắng nghe ý kiến của trẻ con trước khi
quyết định li hôn.
Không được bắt trẻ em nghỉ học.
15
Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương Trường: THCS Buôn Trấp
- Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7
Từ một câu chuyện cảm động đã gợi lên trong các em rất nhiều các suy
nghĩ đáng được trân trọng. Chẳng lẽ chúng ta buộc các em chỉ được rút ra bài
học mà cô đã ghi trên bảng.
III. BÀI SOẠN MẪU:
TIẾT 113 Văn bản: CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG
A/ Mục tiêu cần đạt: Giúp hs
1. Kiến thức: Hiểu về ý nghĩa văn hoá, xã hội của ca Huế. Từ đó có thái độ
và hành động tích cực góp phần bảo tồn, phát triển di sản văn hoá dân tộc đặc
sắc và độc đáo này.
Khái niệm thể loại bút kí. Giá trị văn hoá, nghệ thuật của ca Huế. Vẻ đẹp
của con người xứ Huế.
2. Kĩ năng: Đọc hiểu văn bản nhật dụng viết về di sản văn hoá dân tộc, phân
tích văn bản nhật dụng theo thể loại thuyết minh.
Tích hợp: Kiến thức tập làm văn để viết bài thuyết minh.
3. Thái độ: Yêu quý, trân trọng tự hào về nét đẹp của xứ Huế, gợi lòng yêu
quê hương đất nước. Yêu quý, trân trọng, tự hào về nét đẹp của xứ Huế.
Có ý thức gìn giữ di sản văn hoá dân tộc
B/ Chuẩn bị:
GV: SGK+ SGV+ Bài soạn, tranh ảnh+ máy chiếu( Ti vi kết nối máy
tính)
HS: Đọc, soạn bài theo hệ thống câu hỏi
C/ Tiến trình lên lớp:
1. Ổn định lớp: Nề nếp+ sĩ số
2. Bài cũ: ?Qua truyện ngắn “Những trò lố hay là Varen và Phan Bội
Châu” em hiểu gì về hai nhân vật này?
Varen: kẻ phản bội, tên chính khách làm trò chính trị, kẻ ruồng bỏ giai cấp,
tên lừa dối trắng trợn, trơ tráo và vô liêm sĩ.
16
Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương Trường: THCS Buôn Trấp
- Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7
Phan Bội Châu: bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xã thân được tôn sùng, con
người đáng tôn kính, ngưỡng mộ.
3. Bài mới: * HOẠT ĐỘNG I: GV giới thiệu bài
Ỏ lớp 6, các em đã được học một số văn bản nhật dụng với nhiều đề
tài khác nhau. Nếu Động Phong Nha là một danh lam thắng cảnh, Cầu Long
Biên là một di tích lịch sử thì ca Huế trên sông Hương lại giúp chúng ta hình
dung một cách cụ thể một sinh hoạt văn hoá rất đặc trưng, nổi bật ở xứ Huế
mộng mơ. Hôm nay chúng ta sẽ hiểu thêm vẻ đẹp của Huế qua một đên ca
Huế trên sông Hương.
* HOẠT ĐỘNG II: Nội dung bài học
17
Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương Trường: THCS Buôn Trấp
- HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY TRÒ NỘI DUNG
* Hướng d ẫ Vài kinh nghi
n tìm hiểu chung ệm về việc dạy văn bản nhật dụI. Tìm hi
ng trong ch ương trình Ngữ văn lớp 7
ểu chung
GV: Gọi HS đọc chú thích * SGK
4.Cũng cố: Cũng c ố nội dung toàn bài 1. Tác giả tác phẩm
? Văn bản do ai sáng tác.
2. Đọc từ khó:(SGK)
GV: Hướng dẫn hs đọc(Chậm rãi, rõ ràng, mạch
lạc, lưu ý những câu đặc biệt)
GV đọc mẫu một đoạn, gọi hs đọc tiếp sau đó sữa
chữa, uốn nắn những chổ đọc sai, chưa chuẩn.
HS đọc
? Em biết gì về cố đô Huế? Hãy nêu một vài đặc
điểm tiêu biểu của xứ Huế mà em biết?
(Về vị trí địa lí: Huế thuộc miền trung Việt Nam,
phía nam giáo Đà Nẵng, phía bắc giáp Quảng Trị.
Về đặc điểm lịch sử: Huế (Phú Xuân)từng là kinh
đô của nhà Nguyễn hơn trăm năm(1802 1945)
Về danh lam thắng cảnh: Thiên nhiên có sông
Hương, núi Ngự, có nhiều di tích lịch sử: thành nội,
lăng tẩm của các triều vua nhà Nguyễn, đền đài,
chùa chiền, trong đó có chùa Thiên Mụ nổi tiếng.
Về sản phẩm vật chất và sản phẩm văn hoá tinh
thần: Nhiều món ăn, nhiều thứ bánh kẹo mang màu
sắc Huế như mè xửng, kẹo cau... ó nón bài thơ, có
nhiều điệu hò, làn điệu dân ca nổi tiếng.
Nhắc đến Ng
Huườế i th
ngự ườ thườễ
i ệtan : Nguy
c hi ngn Th ắc đếươ
nhị Hoài S n ng Tr
sông
18 ường: THCS Buôn Trấp
Hương núi Ngự, đến chùa Thiên mụ, đến phú Văn
Lâu và các điệu hò, ca Huế thể hiệ rõ nét tâm hồn
- Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7
? Dòng nào nói đúng nhất nội dung mà văn bản Ca Huế trên sông Hương
muons đề cập?
A. Vẻ đẹp của cảnh quan Huế trong đêm trăng thơ mộng
B. Nguồn gốc của ca Huế
C. Sự phong phú đa dạng của các làn điệu ca Huế
D. Cả 3 nội dung trên
5. Dặn dò
Học thuộc ghi nhớ nắm nội dung bài
Học thuộc một đoạn văn mà em thích
Soạn bài: Liệt kê
IV. Tính mới của giải pháp:
Dạy học văn bản nhật dụng theo phương pháp tích cực thì phải đa
dạng hoá các biện pháp dạy học, cách thức tổ chức, phương tiện dạy học
theo hướng hiện đại hoá. Cần có sự tích hợp với phần đọc hiểu văn bản
nhật dụng: Thu thập, xử lý các nguồn tư liệu, minh hoạ và mở rộng kiến
thức(ở tầm vừa với trình độ của các em) theo nội dung văn bản nhật dụng
trên các kênh thông tin, coi trọng đàm thoại cá nhân và nhóm về văn bản nhật
dụng bằng hệ thống câu hỏi. Trong đó sử dụng nhiều hơn hình thức học theo
nhóm và các câu hỏi liên hệ ý nghĩa văn bản với hoạt động thực tiễn của cá
nhân và cộng đồng xã hội hiện nay: Sáng tạo trò chơi dạy học đơn giản,
nhanh gọn minh hoạ chủ đề văn bản nhật dụng, tăng cường sử dụng phương
tiện dạy học hiện đại để đẩy nhanh nhịp điệu dạy học và gia tăng thông tin
trong bài học văn bản nhật dụng trên lớp, tạo không khí dân chủ, hào hứng
trong giờ học văn bản nhật dụng.
V. Hiệu quả SKKN:
Từ những giải pháp trên tôi áp dụng vào tiết dạy văn bản nhật dụng ở
lớp 7ª4, 7ª7, 7ª8 năm học 20142015(kiểm tra 15 phút đợt 2), các lớp 7ª1, 7ª2
năm học 20182019 cũng tại trường THCS Buôn trấp đạt được kết quả như
sau:
19
Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương Trường: THCS Buôn Trấp
- Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7
Lớp Điểm 8> 10 Điểm 5> 7 Điểm 1> 4
2014 Lớp 7ª4, 7ª7, 7ª8 28 60 10
2015 (TS: 98 học sinh)
2018 7ª1, 7ª2 27 42 01
2019 (TS: 70 học sinh)
Như vậy những giải pháp mà tôi đưa ra có thể áp dụng được cho học
sinh tất cả các trường THCS nhất là trường THCS Buôn trấp. Đồng thời khi
mà tôi đưa ra giải pháp đó các em có sự hứng thú hơn trong học tập, bởi nó
không chỉ cung cấp lượng kiến thức bổ ích cho các em mà nó còn tạo ra tâm lí
thoái mái để các em tiếp nhận tri thức mà không có sự gò ép.
Nói tóm lại dạy học văn bản nhật dụng theo phương pháp tích cực thì
phải đa dạng hoá các biện pháp dạy học, cách thức tổ chức, phương tiện dạy
học theo hướng hiện đại hoá. Cần có sự tích hợp với phần đọc hiểu văn bản
nhật dụng: Thu thập, xử lý các nguồn tư liệu, minh hoạ và mở rộng kiến
thức(ở tầm vừa với trình độ của các em) theo nội dung văn bản nhật dụng
trên các kênh thông tin, coi trọng đàm thoại cá nhân và nhóm về văn bản nhật
dụng bằng hệ thống câu hỏi. Trong đó sử dụng nhiều hơn hình thức học theo
nhóm và các câu hỏi liên hệ ý nghĩa văn bản với hoạt động thực tiễn của cá
nhân và cộng đồng xã hội hiện nay: Sáng tạo trò chơi dạy học đơn giản,
nhanh gọn minh hoạ chủ đề văn bản nhật dụng, tăng cường sử dụng phương
tiện dạy học hiện đại để đẩy nhanh nhịp điệu dạy học và gia tăng thông tin
trong bài học văn bản nhật dụng trên lớp, tạo không khí dân chủ, hào hứng
trong giờ học văn bản nhật dụng.
20
Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương Trường: THCS Buôn Trấp