Nâng cấp TK VIP tải tài liệu không giới hạn và tắt QC

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7

Mục đích chính của đề tài là nhằm đưa ra hướng giải quyết một số thắc mắc về kiến thức và phương pháp dạy học, để từ đó bản thân có thêm kinh nghiệm dạy tốt phần văn bản nhật dụng, đồng thời cũng đáp ứng được nhu cầu đổi mới chương trình Ngữ văn lớp 7 ở trường THCS hiện nay. » Xem thêm

05-03-2021 40 2
QUẢNG CÁO

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1.       Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7    MỤC LỤC Trang TT NỘI DUNG 1 Trang bìa 2 Mục lục 1 3 Phần thứ nhất: Mở đầu 2 4 Phần thứ 2: Giải quyết vấn đề 4 5 I. Cơ sở lý luận 4 6 II. Thực trạng vấn đề 4 7 III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 6 8 IV. Tính mới của giải pháp 22 9 V. Hiệu quả SKKN 22 10 III. Phần kết luận và kiến nghị 24 1     Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương ­ ­  ­ ­ Trường: THCS Buôn Trấp   
  2.       Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7    Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU I. Đặt vấn đề       Có thể nói trong trường kì lịch sử loài người, môn Văn là một môn học  có lịch sử  lâu đời nhất trong các môn học. Trong bất kì giai đoạn nào, môn   học này cũng hướng tới các nhiệm vụ chủ yếu sau đây : Thứ nhất, giúp người học biết đọc, biết viết (biết chữ) Thứ  hai giúp người đọc thấy được cái hay, cái đẹp và biết cảm nhận,  thưởng thức cái hay, cái đẹp của văn chương, nghệ thuật. Thứ ba, thông qua hai nhiệm vụ trên mà mở  mang tri thức, giáo dục tư  tưởng, tình cảm và rèn luyện nhân cách cho người học sinh. Ngày nay, khi đất nước bước sang một giai đoạn mới, mục tiêu của   giáo dục nhà trường phổ thông đã xác định rõ trong luật giáo dục: “ Mục tiêu giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo   đức, trí tuệ, thể  chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ  bản nhằm hình thanh nhân   cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm   công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi  vào cuộc sống lao   động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc” (Luật Giáo dục – Điều 23)   Do yêu cầu gắn với cuộc sống hiện tại nên chương trình Ngữ văn trung  học cơ sở có đưa vào một số văn bản nhật dụng. Đó là những bài viết có tính  chất gần gũi, bức thiết đôí với cuộc sống trước mắt của con người và cộng  đồng trong xã hội hiện đại như : thiên nhiên, môi trường, năng lượng, dân số,  quyền trẻ  em, ma tuý và các tác hại của các tệ  nạn xã hội…Nhằm đưa học   sinh trở  lại với những vấn đề  vừa quen thuộc gần gũi hằng ngày vừa có ý   nghĩa lâu dài trọng đại mà tất cả các dân tộc cùng quan tâm đến, giúp các em   “hòa nhập với xã hội”, thấy được vai trò và nhiệm vụ  của mình đối với xã   hội . Từ đó có tinh thần thái độ học tập đúng đắn hơn. Muốn chuyển tải một cách tốt nhất những kiến thức cơ  bản đó đến   người học. Người giáo viên phải nắm chắc kiến thức, hiểu biết sâu rộng,   vốn sống phong phú. Ai cũng hiểu nếu không nắm vững tri thức thì không thể  dạy tốt được nên người giáo viên bao giờ cũng chú tâm vào việc đào sâu kiến  2     Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương ­ ­  ­ ­ Trường: THCS Buôn Trấp   
  3.       Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7    thức, suy ngẫm, tìm tòi nhằm đáp  ứng tốt nhất yêu cầu các đối tượng học  sinh. Xuất phát từ  nhận thức đó, tôi cảm thấy rằng đúng là cần trăn trở  về  việc giảng dạy các văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ  văn THCS.  Đặc biệt là cụm văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ  văn lớp 7. Tôi  mạo muội viết đề tài: “Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong   chương trình Ngữ  văn lớp 7”. Nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả  giảng dạy   và phát huy tính chủ  động, sáng tạo, linh hoạt của học sinh trong việc tiếp   nhận thông tin, khám phá giá trị của các văn bản nhật dụng . Dẫu có niềm đam mê nhưng vốn kiến thức về  chuyên môn còn hạn   hẹp nên khó tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong được sự góp ý của cấp trên   và đồng nghiệp. II. Mục đích (mục tiêu) nghiên cứu:               Có thể  nói: Chương trình Ngữ  văn THCS được xây dựng theo tinh  thần tích hợp. Các văn bản được lựa chọn theo tiêu chí  Kiểu văn bản( Tập  làm văn) và tương ứng với kiểu văn bản là Thể loại tác phẩm(văn học). Điều  này có nghĩa là việc lựa chọn các văn bản căn cứ trước hết vào tính chất tiêu  biểu của kiểu văn bản và thể  loại tác phẩm. Song bên cạnh đó còn có một  nội dung mà chương trình Ngữ văn quan tâm là sự cập nhật, gắn kết với đời   sống, đưa học sinh trở  lại với những vấn đề  vừa quen thuộc gần gũi hàng   ngày, vừa có ý nghĩa lâu dài, trọng đại mà tất cả  các dân tộc cùng quan tâm  hướng tới … Đó chính là hệ thống các văn bản nhật dụng.            Nhưng để truyền đạt những kiến thức cơ bản và đạt được mục đích   đã xác định thì mỗi người hoàn toàn có thể lựa chọn cho mình một con đường   với những cách thức và các thao tác sư phạm của riêng mình. Con đường riêng  ấy được hình thành từ những suy nghĩ của cá nhân về nội dung bài dạy cũng  như đối tượng học sinh.           Cho nên trong gần 20 năm giảng dạy ở trường THCS Buôn Trấp, bản   thân tôi đã xác định mục đích nghiên cứu của mình là làm sao để  học sinh   khối 7 mà mình đã, đang và sẽ  giảng dạy thông qua các bài học cụ  thể  của   nhóm văn bản nhật dụng mà hiểu biết một cách sâu sắc những vấn đề  về  quyền trẻ  em, nhà trường, phụ  nữ  (người mẹ) và vấn đề  văn hóa giáo dục.   3     Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương ­ ­  ­ ­ Trường: THCS Buôn Trấp   
  4.       Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7    Ngoài ra còn nhằm góp phần tạo thêm sự hứng thú và nâng cao hiệu quả của   giờ lên lớp của mỗi giáo viên. Mục đích chính của đề  tài là nhằm đưa ra hướng giải quyết một số  thắc mắc về kiến thức và phương pháp dạy học, để  từ  đó bản thân có thêm  kinh nghiệm dạy tốt phần văn bản nhật dụng, đồng thời cũng đáp ứng được  nhu cầu đổi mới chương trình Ngữ văn lớp 7 ở trường THCS hiện nay. Cũng có thể  đề  tài này chỉ là một tài liệu dùng để  tham khảo để  phục   vụ cho việc giảng dạy văn bản nhật dụng ở khối 7 THCS       4     Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương ­ ­  ­ ­ Trường: THCS Buôn Trấp   
  5.       Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7    Phần thứ 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lí luận của vấn đề    1.1 “Văn bản nhật dụng không phải là một khái niệm chỉ thể loại hoặc  chỉ  kiểu văn bản. Nói đến  văn bản nhật dụng  là nói đến tính chất của nội  dung văn bản. Đó là những bài viết có tính chất gần gũi, bức thiết đôí với  cuộc sống trước mắt của con người và cộng đồng trong xã hội hiện đại như :  thiên nhiên, môi trường, năng lượng, dân số, quyền trẻ em, ma tuý và các tác   hại của các tệ nạn xã hội… Bởi vậy, văn bản nhật dụng có thể dùng tất cả  các thể tài cũng như các kiểu văn bản” ( Ngữ văn 6­ tập hai) 1.2 Bởi vậy mà những văn bản đều được lựa chọn theo những đề  tài  với những vấn đề  có tính thời sự rất cao và cập nhật với đời sống hiện đại.  Chính vì vậy mà các văn bản nhật dụng có tính lâu dài cùng với sự phát triển   của lịch sử nhân loài. Chẳng hạn như  vấn đề  bảo vệ  di sản văn hoá, chống chiến tranh hạt   nhân, môi trường, dân số, vấn đề  giáo dục trẻ  em, chống hút thuốc lá....Tất  cả  đó đều là những vấn đề  nóng bỏng của hôm nay nhưng không thể  ngày  một ngày hai mà giải quyết được. Giá trị văn chương không phải là yêu cầu cao nhất nhưng đó vẫn là một  yêu cầu quan trọng. Các văn bản nhật dụng nó vẫn thuộc về  một kiểu văn  bản nhất định: kể  chuyện, miêu tả, thuyết minh, nghị  luận hay điều hành....  có nghĩa là văn bản nhật dụng có thể sử dụng mọi thể loại mọi kiểu văn bản. Hơn nữa đối với các em học sinh THCS các em mới lần đầu tiên làm   quen với loại văn bản nhật dụng nên có phần còn bỡ ngỡ. Chưa nói đến một  số  ít giáo viên  ở  một số  trường vẫn chưa thực sự  quan tâm thích đáng đến  phần văn bản này. Do đó mà việc vận dụng và đổi mới phương pháp trong  5     Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương ­ ­  ­ ­ Trường: THCS Buôn Trấp   
  6.       Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7    tiết dạy văn bản nói chung và văn bản nhật dụng nói riêng có một vai trò vô  cùng quan trọng. Với các em khi học văn bản nhật dụng không chỉ  là để  mở  rộng hiểu biết toàn diện mà còn nhằm tạo cho các em thực hiện nguyên tắc là  để các em hoà nhập với cuộc sống xã hội và rút ngắn khoảng cách giữa nhà  trường và xã hội. II. Thực trạng vấn đề: 1/ Thực trạng của vấn đề: Thực tế khi đứng trên lớp trực tiếp giảng  dạy cùng với sự  đóng góp ý kiến trao đổi với các đồng nghiệp bản thân tôi   nhận thấy khi khai thác giảng dạy văn bản nhật dụng giáo viên thường mắc   phải một số hạn chế như sau: Giáo viên coi những văn bản này là một thể  loại cụ  thể  giống như  truyện, kí…. Trong khi đó bản thân nó lại không phải. Vì thế giáo viên chỉ chú  ý dựa vào các điểm của thể  loại như: cốt truyện, nhân vật, tình huống, sự  việc ghi chép để phân tích nội dung. Giáo viên thường chú ý khai thác và bình giảng trên nhiều phương diện   của sáng tạo nghệ  thuật như: cốt truyện, nhân vật, cách kể  mà chưa chú  trọng đến vấn đề xã hội đặt ra trong văn bản gần gũi với học sinh. Ví dụ  khi dạy văn bản Cuộc chia tay của những con búp bê, GV chỉ  chú ý truyền tải nội dung, cốt truyện mà chưa giúp học sinh liên hệ với chính   bản thân mình nếu xãy ra vấn đề đó đối vói gia đình, bạn bè và những người  xung quanh mình. Hơn nữa giáo viên quá nhấn mạnh yêu cầu gắn kết tri thức trong văn  bản với đời sống  mà giáo viên chưa chú ý nhiều tới liên hệ thực tế dẫn đến  khai thác kiển thức chưa đầy đủ. Một mặt vốn kiến thức của giáo viên còn hạn chế, thiếu sự  mở rộng.  Giáo viên chưa vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học cũng như  các  biên pháp tổ  chức dạy học nhằm gây hứng thú cho học sinh. Trong tiết học  thường khô khan, thiếu sinh động và chưa kích thích hứng thú và sự  say mê  yêu thích của các em khi học văn. Phương tiện dạy học cũng đóng một vai trò quan trọng quyết định chất   lượng giờ dạy:ở đây giáo viên chỉ có thể dùng bảng phụ, phiếu học tập đó là  6     Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương ­ ­  ­ ­ Trường: THCS Buôn Trấp   
  7.       Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7    do cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu. Trong khi đó có một số  văn bản   nếu học sinh được xem các tranh ảnh minh hoạ, đoạn băng ghi hình, sơ đồ tư  duy thì sẽ  làm cho tiết học sinh động hơn nhiều. Chẳng hạn khi dạy bài  Ca   Huế trên sông Hương thì hầu như giáo viên không chú ý đến vấn đề này. Giáo viên còn có một tâm lí là phân vân không biết có nên sử  dụng  phương pháp giảng bình khi dạy những văn bản này hay không và nếu có thì  sử dụng ở mức độ nào? Giờ  học tẻ  nhạt không thực sự  thu hút sự  hứng thú của học sinh. Bản  thân các em chưa biết liên hệ  thực tế, chưa biết giải quyết vấn đề  nêu ra   trong văn bản nhật dụng. 2/Nguyên nhân của thực trạng: + Số  lượng văn bản nhật dụng chiếm số  lượng không nhiều (khoảng  10% trong chương trình sgk THCS) nhưng trước đó lí luận dạy học chưa từng  đặt vấn đề  về  phương pháp dạy học văn bản nhật dụng. Bởi vậy nên giáo   viên ít có kinh nghiệm, giờ giảng dạy còn lung túng về phương pháp. + Việc sử  dụng máy chiếu của giáo viên chưa thực sự  nhuần nhuyễn,  chưa được đều đặn nên việc mở  rộng kiến thức cho các em bằng hình ảnh,  đoạn phim, bài dân ca Bắc Bộ… còn rất hạn chế. + Giáo viên chưa xác định đúng mục tiêu đặc thù của bài học văn bản   nhật dụng. + Giáo viên ít sưu tầm các tài liệu liên quan đến văn bản nhật dụng để  bổ sung cho bài học thêm phong phú. + Một nguyên nhân có thể  nói là khó có thể  giải quyết ngay được là   việc học của học sinh. Đa phần học sinh của trường chúng tôi là con nông  dân, sự quan tâm của cha mẹ đến việc học của con cái chưa thực sự tốt nhiều  gia đình đi làm ăn xa không có điều kiện quan tâm đến các em. Nhiều em   không chăm học, về nhà không học bài, không chuẩn bị bài trước khi đến lớp  dẫn đến không hiểu bài. Điều đó đã làm cho giáo viên càng gặp khó khăn hơn. + Đồng thời hệ thống văn bản nhật dụng trong sách giáo khoa ngữ văn   lớp 7 lại tồn tại dưới nhiều kiểu văn bản khác nhau. Đó có thể  là truyện   ngắn (Cuộc chia tay của những con búp bê), một bài bút kí(Ca Huế trên sông   7     Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương ­ ­  ­ ­ Trường: THCS Buôn Trấp   
  8.       Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7    Hương)Cũng   có   thể   là   một   bài   báo   biểu   cảm(Cổng   trường   mở   ra),   Bức   thư(Mẹ tôi). Năm học 2014­2015 bản thân tôi được phân công giảng dạy môn   Ngữ văn lớp 7 từ thực trạng nêu trên nên kết quả của việc học văn bản nhật   dụng của năm 2014­ 2015 được thể hiện qua bài kiểm tra 15 phút như sau (cụ  thể tôi dạy 3 lớp 7a4, 7a7, 7a8). Lớp Điểm 8­> 10 5­> 7 1­>4 7a4, 7a7, 7a8  13 em 35 em 50 em (TS: 98) Lưu ý: Điểm khá, Giỏi phần lớn đều nằm ở lớp 7a8. III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 1 /  Một số vấn đề cơ bản cần chú ý khi dạy các văn bản nhật dụng:  1.1) Dạy loại văn bản này là “  Tạo điều kiện tích cực để  thực hiện   nguyên tắc giúp học sinh hòa nhập với xã hội”. Nên các đề  tài được chọn dĩ  nhiên phải có tính chất thời sự, song đó cũng phải là những đề tài có liên quan   đến “Những vấn đề xã hội có ý nghĩa lâu dài”. Do đó dạy văn bản nhật dụng, trước hết phải từ cái trước mắt, có tính   cập nhật và thời sự, chỉ ra ý nghĩa lâu dài muôn thuở; từ cái của một nơi, chỉ  ra điều của mọi nơi; từ  một phương diện, chỉ  ra mối liên quan của nhiều   phương diện. Do chức năng, đề  tài, tính chất của văn bản, GV có quyền và  cần cho HS liên hệ  tới một phạm vi rộng rãi mà không bị  quá gò bó trong  khuôn khổ  văn chương. Hoàn toàn có thể  cho HS liên hệ  trực tiếp vấn đề  đang học với tình hình địa phương và khi cần, có thể  sử  dụng một giờ  dành   cho chương trình địa phương để  tiến hành các hoạt động điều tra, thống kê,  khảo sát. 1.2) Ở phần chú thích, bên cạnh việc giải nghĩa, còn có những thông tin   khác về lịch sở, xã hội, chính trị, … Cần lưu ý HS đọc kĩ cả những chú thích   đó mới hiểu được một cách đầy đủ, sâu sắc ý nghĩa của văn bản.   1.3) Không nên quan niệm đây là những sáng tác tiêu biểu cho các tác  phẩm văn học của một thời kì hay một tác giả nào đấy để đặt ra hay đòi hỏi   qua cao yêu cầu về  nghệ thuật của văn bản. Mặc dù các văn bản nhật dụng  trong chương trình Ngữ văn THCS có cách viết trong sáng, chuẩn mực, nhưng   8     Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương ­ ­  ­ ­ Trường: THCS Buôn Trấp   
  9.       Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7    có lẽ nhà biên soạn chủ yếu vẫn là chú ý đến nội dung chính đặt ra trong tác   phẩm ấy. Vì vậy khi dạy học các văn bản nhật dụng , GV nên tập trung khai  thác các vấn đề  nội dung tư tưởng đặt ra  ở  mỗi văn bản; từ  đó mà liên hệ  ,  giáo dục tư tưởng, tình cảm và ý thức cho HS trước các vấn đề mà cả xã hội  đang quan tâm. 2) Nh   ững lưu ý về  nội dung khi dạy các  văn b   ản nhật dụng  trong sách      giáo khoa Ngữ văn 7:    2.1) Trong chương trình Ngữ văn 7 gồm 4 văn bản nhật dụng sâu đây: - Cổng trường mở ra Của Lí Lan. - Mẹ tôi của Et­môn­đô­đơ  A­mi­xi trong Những tấm lòng cao cả. - Cuộc chia tay của những con búp bê của Khánh Hoài. - Ca Huế trên sông Hương của Hà Ánh Minh.        Hai văn bản Cổng trường mở ra Của Lí Lan và Mẹ tôi của Et­môn­ đô­đơ   A­mi­xi nhằm khai thác nội dung người mẹ  và nhà trường. Văn bản   Cuộc chia tay của những con búp bê của Khánh Hoài thuộc đề  tài quyền trẻ  em. Văn bản cuối là một bài báo giới thiệu một sản phẩm văn hóa nổi tiếng   của một địa danh nổi tiếng với một con sông nổi tiếng:  Ca Huế  trên sông   Hương của Hà Ánh Minh. 2.2. Nắm chắc đặc điểm và ý nghĩa của các nội dung đặt ra trong mỗi  văn bản nhật dụng để hướng dẫn học sinh tự liên hệ, rút ra được bài học  cho chính bản thân mình. Chẳng hạn:     2.2.1 Cổng trường mở  ra là một bài kí được trích từ  báo là một bài kí  được trích từ  báo Yêu trẻ  – thành phố  Hồ  Chí Minh của tác giả  Lí Lan. Bài  văn ghi lại tâm trạng của một người mẹ  trong đêm chuẩn bị  cho con trước  ngày khai trường vào lớp một. Không có sự  việc, không có cốt truyện, chủ  yếu là tâm trạng hồi hộp, phấp phỏng đón chờ  ngày khai trường. Người mẹ  không ngủ, phần vì lo chuẩn bị  cho con, nhưng phần vì cả  tuổi thơ  áo trắng   đến trường của chính mình sống dậy. “Cứ  nhắm mắt lại là mẹ  dường như  nghe tiếng đọc trầm bổng  : “Hằng năm cứ  vào cuối thu… Mẹ  tôi âu yếm   nắm lấy tay tôi, dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp” 9     Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương ­ ­  ­ ­ Trường: THCS Buôn Trấp   
  10.       Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7    Khi dạy bài này, GV chủ yếu hướng dẫn HS  tìm hiểu và phân tích tâm   trạng của người mẹ  là chính. Qua tâm trạng này mà thấy được tình cản và  tấm lòng của bà mẹ  trước ngày con vào lớp một. Từ  đó mà HS liên hệ  với  chính bản thân mình.        2.2.2 Mẹ tôi là một bài văn mang tính truyện nhưng lại dưới dạng một   bức thư    của nhà văn Ét­môn­đô­đơ    A­mi­xi( Nhà văn I­ta­li­a). có chuyện   xãy ra nhưng phần chính vẫn là tâm trạng và những suy nghĩ của người bố  qua bức thư gửi cho con – người đã phạm lỗi. Qua bức thư, người đọc thấm   thía công lao và tình cảm của người mẹ có ý nghĩa như  thế  nào đối với mỗi   người con. Do tập trung đề cao người mẹ và nhấn mạnh ý nghĩa giáo dục, có   những chỗ tác giả diễn đạt khá cực đoan, ví dụ; “ Bố rất yêu con, con ạ, con   là niềm hi vọng tha thiết nhất của đời bố, nhưng thà rằng bố   không có con,  còn hơn là thấy con bội bạc với mẹ”, trong quá trình phân tích nếu để nguyên  như  thế  hoặc không khéo léo   học sinh cảm thấy nặng nề  và có thể  hiểu  nhầm tấm lòng của người cha rằng yêu vợ  hơn con nên nười giáo viên phải  phân tích, bình luận và chỉ  rõ cho các em thấy tình cảm và sự  nghiêm khắc  của người cha trong việc giáo dục con. GV hướng dẫn HS tìm hiểu và phân tích văn bản, từ  đó mà rút ra nội   dung và ý nghĩa của bài học, tự liên hệ và kiểm điểm về những thái độ và tình  cảm của chính bản thân đối với bố mẹ mình. 2.2.3 Cuộc chia tay của những con búp bê của Khánh Hoài tuy là một  truyên ngắn, nhưng khi vào sách Ngữ  văn, văn bản này vẫn chủ  yếu được  khai thác theo tinh thần của một văn bản nhật dụng. Đây là văn bản thể hiện  vấn đề  quyền trẻ  em, một trong những nội dung chính của mảng văn bản  nhật dụng trong chương trình Ngữ văn 7. Trẻ em có rất nhiều quyền. Điều đó  đã được ghi trong công  ước quốc tế  về  quyền trẻ  em của Liên hợp quốc   1989. Tuy vậy đề  tài về  quyền trẻ  em thì không phải nhiều. Các tác giả  thường khai thác  ở  một số  vấn đề  như: Nỗi khổ  về  cuộc sống vật chất và  nỗi đau về tinh thần. Một trong những nỗi đau về tinh thần đó là nỗi đau sống  thiếu cha, thiếu mẹ. Cha mẹ không may mất đi là một nỗi đau đã đành. Cha   mẹ vẫn sống mà con cái vẫn bị chia lìa xa cách mới là điều đáng nói. Nỗi đau  này do chính con người tạo nên cho bản thân và con cái mình. Truyện  Cuộc   chia tay của những con búp bê  viết về  vấn đề  này nhưng qua câu chuyện  10     Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương ­ ­  ­ ­ Trường: THCS Buôn Trấp   
  11.       Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7    người đọc còn thấy được những tình cảm anh em trong sáng, thân thiết, sự  gắn bó máu thịt và tấm lòng nhân hậu, vị tha của những em bé chẳng may rơi   vào cảch hạnh phúc gia đình tan vỡ. Truyện ngắn này đã được giải nhì trong  cuộc thi thơ văn viết về quyền trẻ em do viện khoa học giáo dục và tổ  chức  cứu trợ trẻ em Thuỵ Điển tổ chức năm 1992. Khi đọc văn bản này, bản thân  tôi  cũng hơi  băn khoăn là liệu vấn đề khá tế nhị và phức tạp của người lớn   (chuyện li hôn) mà cho HS lớp 7 biết như thế có quá sớm không? Sau khi trao   đổi với đồng nghiệp tôi mới nhận thấy việc dạy văn bản này cho lứa tuổi này  không có gì đáng lo lắng vì:     ­ Thứ nhất, vấn đề  hạnh phúc gia đình bị  đổ  vỡ, bố  mẹ li hôn, con cái   chịu nhiều đau đớn, thua thiệt,… là một sự  thật không nên né tránh trong xã   hội. Các phương tiện thông tin đại chúng ( sách, báo, phát thanh, truyền hình, …)cũng thường xuyên khai thác vấn đề  này. Vì thế  đây không còn là câu  “chuyện kín” cần phải giữ gìn, “che đậy” với các em.     ­ Thứ hai, nội dung chính của truyện  Cuộc chia tay của những con búp   bê không tập trung khai thác và miêu tả  trực tiếp cảnh đổ  vỡ  giữa  cha mẹ  (như  xô xát, mắng chửi, đập phá,…) mà chủ  yếu tập trung khắc hoạ  những  tình cảm và tấm lòng vị  tha, nhân hậu, trong sáng và cao đẹp của hai em bé.   Chính điều này có ý nghĩa giáo dục không chỉ  với các em mà cho cả  những   người đã là cha, là mẹ. Cũng chính điều này cùng với cách kể  chuyện chân  thật đã tạo cho truyện một sức truyền cảm khá mạnh, khiến cả  người dạy  lẫn người học rất xúc động. Do đó khi dạy, GV cần tập trung khai thác nội   dung này là chính. 2.2.4  Ca   Huế   trên   sông   Hương  của   Hà   Anh  Minh   nhằm  giới  thiệu  những sản phẩm văn hố  truyền thống của dân tộc. Bài văn viết về  một sản   phẩm văn hố  nổi tiếng của một địa danh nổi tiếng với một con sông nổi   tiếng:  Ca Huế  trên sông Hương.  Đây không phải là một truyện ngắn, một   sáng tác có tính hư  cấu mà chỉ  là một bút kí, ghi chép một nét sinh hoạt văn   hóa: Ca Huế  trên sông Hương. Qua cảnh sinh hoạt này mà giới thiệu những  vẻ đẹp của cảnh và người xứ Huế; giới thiệu những hiểu biết của tác giả về  nuồn gốc, về sự phong phú của cac làn điệu dân ca Huế.       Bài văn vừa tả cảnh ca Huế trong một đêm trăng trên dòng sông Hương   thơ mộng, vừa giới thiệu những làn điệu dân ca Huế, vì thế không thể chia bố  11     Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương ­ ­  ­ ­ Trường: THCS Buôn Trấp   
  12.       Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7    cục một cách rõ ràng. Tuy vậy GV có thể tập trung khai thác mấy nội dung cơ  bản sau: - Vẻ  đẹp phong phú, đa dạng của các làn điệu dân ca Huế  ( thể  hiện   qua tên gọi các làn điệu, qua nhạc cụ và cách chơi) - Vẻ  đẹp của cảnh ca Huế  trong đêm trăng thơ  mộng trên dòng sông  Hương. - Nguồn gốc của một số làn điệu ca Huế.       Có thể  do nội dung và tính chất của bài viết mà tác giả  nhắc tới rất  nhiều tên các làn điệu ca Huế, nhạc cụ  và các “ngón đàn” của ca công. Khi  học, GV không nên bắt các em phải nhớ, phải hiểu hết các chú thích. Nên chốt  lại vấn đề bằng việc khái quát: Ca Huế đa dạng và phong phú đến nỗi chúng  ta khó mà nhớ hết được tên các làn điệu, tên các nhạc cụ và các ngón đàn của  ca công. Bài học này nằm gần với phần chương trình Ngữ văn địa phương(tuần  29) và hoạt động Ngữ  văn (tuần 31) vì thế  GV cần liên hệ  nội dung bài học   này với các nội dung sẽ học trong các tuần đó. Ví dụ: - Từ bài văn đề nghị các em liên hệ với các làn điệu dân ca nói riêng và  các sản phẩm văn hóa tinh thần nói chung của quê hương mình. - Thử  sưu tầm và giới thiệu một băng, đĩa nhạc có ca Huế, hoặc các   bài hát hiện đại phỏng theo những điệu ca Huế. - Thử  tập hát một vài làn điệu ca Huế  hoặc giới thiệu một làn điệu   dân ca của quê hương mình. - Viết bài tập tìm hiểu về các vùng dân ca nổi tiếng của dân tộc như:  dân ca quan họ Bắc Ninh, dân ca Nghệ Tĩnh, dân ca Nam bộ, dân ca  Liên khu Năm,… 3 /  Những lưu ý về phương pháp (phương pháp chủ động) khi dạy văn   bản nhật dụng: Tinh thần chung của PPDH mới là: Tôn trọng HS, tránh áp đặt, linh  hoạt, chủ  động và sáng tạo. HS tự  mình tiếp xúc vơíù các văn bản, tự  mình  suy nghĩ khám phá cái hay, cái độc đáo của tác phẩm dưới sự hướng dẫn của   thầy. Do đó GV cần lưu ý: 12     Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương ­ ­  ­ ­ Trường: THCS Buôn Trấp   
  13.       Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7    3.1/ Xác định mục tiêu dạy học Đối với tác phẩm văn chương, hoạt động đọc­ hiểu là việc đọc nghiền  ngẫm, phân tích, cảm thụ  những vẻ  đẹp của nghệ  thuật ngôn từ, để  từ  đó   hiểu được những khái quát về đời sống tác giả. Nghĩa là người đọc tự  mình   khám phá và rung động về ý nghĩa đời sống và giá trị thẫm mĩ của tác phẩm.  Đó chính là mục tiêu kiến thức của bài học văn bản nghệ thuật. Còn đối với   văn bản nhật dụng thì mục tiêu kiến thức của bài học sẽ  nhấn vào nội dung   tư tưởng của văn bản, tức là nắm bắt vấn đề xã hội gần gũi, bức thiết, mang  tính thời sự hơn là đi sâu vào khám phá giá trị hình thức của văn bản.Như vậy  việc xác định mục tiêu kiến thức của bài học văn bản nhật dụng phải bắt đầu  từ sự rõ ràng trong việc phân loại văn bản. 3.2/ GV cần biết cách đặt những câu hỏi mở, khuyến khích HS suy  nghĩ, nghe HS trả lời một cách tin cậy và thân ái. Cần huy động mọi HS ở các   trình độ  khác nhau tham gia vào việc trả  lời câu hỏi và đóng góp ý kiến. Ví   dụ: Khi dạy văn bản Cổng trường mở ra, GV đặt câu hỏi “ Kết thúc bài văn   bà mẹ nói: “ Bước qua cánh cổng trường là một thế giới kì diệu sẽ  mở  ra” .  Em đã trải qua thời lớp Một, bây giờ em hiểu thế giới kì diệu đó là những gì?        Đây là câu hỏi mở, nhằm làm nổi bật lên vai trò và vị  trí của nhà   trường đối với cuộc đời mỗi con người. HS có thể trả lời theo cách riêng của  mình. GV chỉ nên định hướng, gợi mở một vài điểm thật cần thiết như : Nhà   trường đã mang lại cho em những gì về  tri thức, về tình cảm, tư  tưởng, đạo   lí, về tình bạn, tình thầy trò,…? 3.2/ Sử  dụng không gian nhà trường, lớp học, dụng cụ  học tập như  bảng phụ một cách sáng tạo để tổ chức cho HS thảo luận cũng như tiến hành  các hoạt động khác theo nhóm. Ví dụ: Khi dạy văn bản “Mẹ tôi”, GV đặt câu  hỏi: Theo em, tại sao người bố  không nói trực tiếp với En­ri­cô mà lại viết   thư?          Câu hỏi này đòi hỏi HS phải suy luận nhiều. Có thể  có nhiều cách trả  lời khác nhau nên các em cần bàn bạc và thống nhất ý kiến trong nhóm. Mỗi  nhóm lại có thể có mỗi cách suy luận  khác nhau, miễn là hợp lí. Tổng hợp ý  của các nhóm sẽ  là: Tình cảm sâu sắc thường tế  nhị  và kín đáo nhiều khi   không nói trực tiếp được. Hơn nữa viết thư là chỉ nói riêng cho người mắc lỗi  13     Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương ­ ­  ­ ­ Trường: THCS Buôn Trấp   
  14.       Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7    biết, vừa giữ  được sự  kín đáo, tế  nhị, vừa không làm người mắc lỗi mất đi  lòng tự  trọng. Đây chính là bài học sâu sắc về  cách  ứng xử  trong cuộc sống   gia đình cũng như trong nhà trường và xã hội. 3.3/  Việc lớp học trở nên ồn ào hơn mỗi khi thảo luận cần được hiểu  là dấu hiệu của hoạt động học tập tích cực chứ không có nghĩa là kỉ luật lớp  học lỏng lẻo. Tránh kiểu “ im lặng nhà thờ”. 3.4/ Lên kế  hoạch và chuẩn bị  bài giảng sao cho có thể  kết hợp các   kiến thức của bài học với các ví dụ tương ứng, sử dụng những kiến thức liên   quan đến tình hình  địa phương nơi trường đang đóng cũng như  liên hệ  với  thực tế cuộc sống hiện nay một cách linh hoạt có tác dụng giúp HS tự  rút ra   bài học cho bản thân.           3.5/ Lấy SGK làm chuẩn, cung cấp kiến thức không nên qua nặng nề,   ôm đồm làm phức tạp hóa các vấn đề  vốn đơn giản. Biết mười để  dạy một  là một tư  tưởng đúng, nhất là dạy đúng cái “một” đó. Không nên biết mười  rồi giới thiệu luôn cả  mười, có gì thì các thầy cô đều muốn nói hết cho HS.  Đây là một trong những nguyên nhân tạo nên tình trạng “quá tải” không chỉ  đối với HS mà cả đối với GV. Hãy để cho HS tự tìm tòi, phát hiện với lượng   kiến thức vừa sức của các em. 3.6/ Chú ý tính phân hóa trong HS. Đưa ra các bài tập phải đa dạng, có  bài tập mở rộng đối với HS khá và cũng có bài tập đặc biệt dành cho HS yếu   kém. Ví dụ: Khi dạy bài Cuộc chia tay của những con búp bê,  GV đặt câu hỏi  : Lời nói và hành động của Thuỷ khi thấy anh chia hai con búp bê “Vệ Sĩ” và   “Em Nhỏ” ra hai bên có gì mâu thuẩn? Theo em có cách nào để  giải quyết   mâu thuẩn ấy không? Kết thúc truyện Thuỷ đã lựa chọn cách giải quyết như   thế  nào? Chi tiết này gợi lên trong em những suy nghĩ và tình cảm như  thế   nào?         Câu hỏi này buộc HS đi sâu vào phân tích một sự việc (hành động) của   nhân vật chính, từ đó thấy được nội dung sâu sắc của truyện. Đây là câu hỏi  khó, GV có thể gợi ý và yêu cầu những HS khá giỏi trong lớp trình bày. Trước   khi chỉ cho các em thấy được vấn đề: - Mâu thuẫn  ở  chỗ: một mặt Thuỷ  rất giận dữ, không muốn chia rẽ  hai con búp bê, nhưng mặt khác em lại rất thương Thành, sợ  đêm  14     Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương ­ ­  ­ ­ Trường: THCS Buôn Trấp   
  15.       Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7    đêm không có con vệ sĩ canh giấc ngủ cho anh, nên em rất bối rối sau   khi đã “tru tréo lên giận dữ’. - Đưa ra tình huống này, nhằm gợi lên  ở  các em một suy nghĩ: Muốn   giải quyết mâu thuẫn này, chỉ  có cách gia đình Thuỷ  và Thành phải  đoàn tụ, hai anh em không phải chia tay. - Cuối truyện, Thuỷ  lựa chọn cách để  lại con Em Nhỏ  gợi lên trong  lòng người đọc lòng thương cảm đối với Thuỷ, thương cảm một em   gái giàu lòng vị  tha, thương anh, thương cả  những con búp bê, thà  mình chịu chia lìa chứ không để búp bê phải chia tay, mình đành chịu   thiệt thòi để anh luôn có con vệ sĩ gác cho ngủ đêm đêm. Chi tiết này  cũng khiến người đọc thấy sự chia tay của hai con Em Nhỏ và Vệ Sĩ   là rất vô lí, là không nên có.       3.7/  Cần tôn trọng những nhận xét, đánh giá của HS phần nào đồng nghĩa   với việc chúng ta phải chấp nhận rằng ý kiến của chúng ta không phải khi  nào cũng đúng.   Người GV khi dạy kiểu bài này chủ yếu là nêu vấn đề, gợi   mở  vấn đề  để  HS tìm tòi. Không áp đặt kết quả  có sẵn và vì thế  kết quả  phân tích, hiểu và cảm thụ  của HS có thể  không trùng và không nhất thiết  phải đúng với những gì thầy cô hiểu và cảm nhận về  tác phẩm đó. Một ví  dụ: Khi giảng văn bản này  ở lớp 7A7, tôi đã nghĩ là chỉ rút ra bài học: Người   lớn và xã hội hãy chăm lo và bảo vệ hạnh phúc của trẻ em. không thể để trẻ   em rơi vào tình cảnh bất hạnh. Trong khi chính các em rút ra rất nhiều bài học   tự nhiên, cảm động, không kém phần sâu sắc: ­ Anh em phải thương yêu nhau. ­ Cha mẹ không nên li hôn. ­ Không được chia rẽ  tình cảm anh em, phải để  cho anh em ruột thịt   được sống bên nhau dù bất cứ lí do gì. ­ Người lớn phải tôn trọng, lắng nghe ý kiến của trẻ  con trước khi   quyết định li hôn. ­ Không được bắt trẻ em nghỉ học. 15     Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương ­ ­  ­ ­ Trường: THCS Buôn Trấp   
  16.       Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7           Từ một câu chuyện cảm động  đã gợi lên trong các em rất nhiều các suy   nghĩ đáng được trân trọng. Chẳng lẽ chúng ta buộc các em chỉ được rút ra bài  học mà cô đã ghi trên bảng. III. BÀI SOẠN MẪU: TIẾT 113­ Văn bản: CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG A/ Mục tiêu cần đạt: Giúp hs 1. Kiến thức: Hiểu về ý nghĩa văn hoá, xã hội của ca Huế. Từ  đó có thái độ  và hành động tích cực góp phần bảo tồn, phát triển di sản văn hoá dân tộc đặc  sắc và độc đáo này. ­ Khái niệm thể loại bút kí. Giá trị  văn hoá, nghệ  thuật của ca Huế. Vẻ đẹp  của con người xứ Huế. 2. Kĩ năng: Đọc­ hiểu văn bản nhật dụng viết về di sản văn hoá dân tộc, phân   tích văn bản nhật dụng theo thể loại thuyết minh. Tích hợp: Kiến thức tập làm văn để viết bài thuyết minh. 3. Thái độ: Yêu quý, trân trọng tự  hào về  nét đẹp của xứ  Huế, gợi lòng yêu   quê hương đất nước. Yêu quý, trân trọng, tự hào về nét đẹp của xứ Huế. ­ Có ý thức gìn giữ di sản văn hoá dân tộc B/ Chuẩn bị: GV: SGK+ SGV+ Bài soạn, tranh  ảnh+ máy chiếu( Ti vi kết nối máy  tính) HS: Đọc, soạn bài theo hệ thống câu hỏi C/ Tiến trình lên lớp: 1. Ổn định lớp: Nề nếp+ sĩ số 2. Bài cũ: ?Qua truyện ngắn “Những trò lố  hay là Va­ren và Phan Bội   Châu” em hiểu gì về hai nhân vật này? ­ Va­ren: kẻ phản bội, tên chính khách làm trò chính trị, kẻ ruồng bỏ giai cấp,   tên lừa dối trắng trợn, trơ tráo và vô liêm sĩ. 16     Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương ­ ­  ­ ­ Trường: THCS Buôn Trấp   
  17.       Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7    ­ Phan Bội Châu: bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xã thân được tôn sùng, con  người đáng tôn kính, ngưỡng mộ. 3. Bài mới: * HOẠT ĐỘNG I: GV giới thiệu bài Ỏ lớp 6, các em đã được học một số văn bản nhật dụng với nhiều đề  tài khác nhau. Nếu Động Phong Nha là một danh lam thắng cảnh, Cầu Long  Biên là một di tích lịch sử thì ca Huế trên sông Hương lại giúp chúng ta hình  dung một cách cụ thể một sinh hoạt văn hoá rất đặc trưng, nổi bật ở xứ Huế  mộng mơ. Hôm nay chúng ta sẽ  hiểu thêm vẻ  đẹp của Huế  qua một đên ca  Huế trên sông Hương. * HOẠT ĐỘNG II: Nội dung bài học 17     Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương ­ ­  ­ ­ Trường: THCS Buôn Trấp   
  18. HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY­ TRÒ NỘI DUNG * Hướng d  ẫ    Vài kinh nghi n tìm hiểu chung ệm về việc dạy văn bản nhật dụI. Tìm hi ng trong ch ương trình Ngữ văn lớp 7   ểu chung  GV: Gọi HS đọc chú thích * SGK 4.Cũng cố: Cũng c ố nội dung toàn bài 1. Tác giả­ tác phẩm ? Văn bản do ai sáng tác. 2. Đọc­ từ khó:(SGK) GV:   Hướng   dẫn   hs   đọc(Chậm   rãi,   rõ   ràng,   mạch  lạc, lưu ý những câu đặc biệt) GV đọc mẫu một đoạn, gọi hs đọc tiếp sau đó sữa  chữa, uốn nắn những chổ đọc sai, chưa chuẩn. HS đọc ? Em biết gì về  cố  đô Huế? Hãy nêu một vài đặc  điểm tiêu biểu của xứ Huế mà em biết? (Về  vị  trí địa lí: Huế  thuộc miền trung Việt Nam,   phía nam giáo Đà Nẵng, phía bắc giáp Quảng Trị. Về  đặc điểm lịch sử: Huế  (Phú Xuân)từng là kinh  đô của nhà Nguyễn hơn trăm năm(1802­ 1945) ­   Về   danh   lam   thắng   cảnh:   Thiên   nhiên   có   sông  Hương, núi Ngự, có nhiều di tích lịch sử: thành nội,  lăng tẩm  của  các triều vua nhà Nguyễn,  đền  đài,  chùa chiền, trong đó có chùa Thiên Mụ nổi tiếng. Về  sản phẩm vật chất và sản phẩm văn hoá­ tinh  thần: Nhiều món ăn, nhiều thứ  bánh kẹo mang màu  sắc Huế  như  mè xửng, kẹo cau... ó nón bài thơ, có  nhiều điệu hò, làn điệu dân ca nổi tiếng. Nhắc   đến    Ng   Huườế  i th ngự ườ   thườễ i  ệtan : Nguy c hi ngn Th ắc   đếươ   nhị Hoài S n  ng ­ ­  ­ ­ Tr sông 18   ường: THCS Buôn Trấp    Hương núi Ngự, đến chùa Thiên mụ, đến phú Văn  Lâu và các điệu hò, ca Huế  thể  hiệ  rõ nét tâm hồn  
  19.       Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7    ? Dòng nào nói đúng nhất nội dung mà văn bản Ca Huế  trên sông Hương   muons đề cập? A. Vẻ đẹp của cảnh quan Huế trong đêm trăng thơ mộng B. Nguồn gốc của ca Huế C. Sự phong phú đa dạng của các làn điệu ca Huế D. Cả 3 nội dung trên 5. Dặn dò ­ Học thuộc ghi nhớ­ nắm nội dung bài ­ Học thuộc một đoạn văn mà em thích ­ Soạn bài: Liệt kê  IV. Tính mới của giải pháp:  Dạy học văn bản nhật dụng theo phương pháp tích cực thì phải đa  dạng hoá các biện pháp dạy học, cách thức tổ  chức, phương tiện dạy học   theo hướng hiện đại hoá. Cần có sự  tích hợp với phần đọc­ hiểu văn bản  nhật dụng: Thu thập, xử  lý các nguồn tư  liệu, minh hoạ  và mở  rộng kiến  thức(ở  tầm vừa với trình độ  của các em) theo nội dung văn bản nhật dụng  trên các kênh thông tin, coi trọng đàm thoại cá nhân và nhóm về văn bản nhật  dụng bằng hệ thống câu hỏi. Trong đó sử dụng nhiều hơn hình thức học theo   nhóm và các câu hỏi liên hệ  ý nghĩa văn bản với hoạt động thực tiễn của cá  nhân và cộng đồng xã hội hiện nay:   Sáng tạo trò chơi dạy học đơn giản,  nhanh gọn minh hoạ chủ đề văn bản nhật dụng, tăng cường sử dụng phương   tiện dạy học hiện đại để  đẩy nhanh nhịp điệu dạy học và gia tăng thông tin  trong bài học văn bản nhật dụng trên lớp, tạo không khí dân chủ, hào hứng  trong giờ học văn bản nhật dụng. V. Hiệu quả SKKN:  Từ những giải pháp trên tôi áp dụng vào tiết dạy văn bản nhật dụng  ở  lớp 7ª4, 7ª7, 7ª8 năm học 2014­2015(kiểm tra 15 phút đợt 2), các lớp 7ª1, 7ª2  năm học 2018­2019 cũng tại trường THCS Buôn trấp đạt được kết quả  như  sau:  19     Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương ­ ­  ­ ­ Trường: THCS Buôn Trấp   
  20.       Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7    Lớp Điểm 8­> 10 Điểm 5­> 7 Điểm 1­> 4 2014­ Lớp 7ª4, 7ª7, 7ª8 28 60 10 2015 (TS: 98 học sinh) 2018­ 7ª1, 7ª2 27 42 01 2019  (TS: 70 học sinh)     Như vậy những giải pháp mà tôi đưa ra có thể  áp dụng được cho học  sinh tất cả các trường THCS nhất là trường THCS Buôn trấp. Đồng thời khi  mà tôi đưa ra giải pháp đó các em có sự  hứng thú hơn trong học tập, bởi nó   không chỉ cung cấp lượng kiến thức bổ ích cho các em mà nó còn tạo ra tâm lí   thoái mái để các em tiếp nhận tri thức mà không có sự gò ép.  Nói tóm lại dạy học văn bản nhật dụng theo phương pháp tích cực thì  phải đa dạng hoá các biện pháp dạy học, cách thức tổ chức, phương tiện dạy   học theo hướng hiện đại hoá. Cần có sự tích hợp với phần đọc­ hiểu văn bản  nhật dụng: Thu thập, xử  lý các nguồn tư  liệu, minh hoạ  và mở  rộng kiến  thức(ở  tầm vừa với trình độ  của các em) theo nội dung văn bản nhật dụng  trên các kênh thông tin, coi trọng đàm thoại cá nhân và nhóm về văn bản nhật  dụng bằng hệ thống câu hỏi. Trong đó sử dụng nhiều hơn hình thức học theo   nhóm và các câu hỏi liên hệ  ý nghĩa văn bản với hoạt động thực tiễn của cá  nhân và cộng đồng xã hội hiện nay:   Sáng tạo trò chơi dạy học đơn giản,  nhanh gọn minh hoạ chủ đề văn bản nhật dụng, tăng cường sử dụng phương   tiện dạy học hiện đại để  đẩy nhanh nhịp điệu dạy học và gia tăng thông tin  trong bài học văn bản nhật dụng trên lớp, tạo không khí dân chủ, hào hứng  trong giờ học văn bản nhật dụng. 20     Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương ­ ­  ­ ­ Trường: THCS Buôn Trấp   

 

TOP Download

Tài liệu đề nghị cho bạn:

popupslide2=2Array ( )