Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán chuyển động đều cho học sinh lớp 5
Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm là giúp giáo viên có nhận thức đúng đắn về vai trò và tầm quan trọng của nội dung toán chuyển động đều trong chương trình toán 5. » Xem thêm
Tóm tắt nội dung tài liệu
- BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Toán học là môn khoa học cơ bản, có vai trò quan trọng không chỉ trong nhà
trường mà còn trong đời sống của con người. Dạy và học toán nói chung và với
đối tượng học sinh tiểu học nói riêng yêu cầu phải sử dụng linh hoạt và hợp lí
các phương pháp dạy học từ truyền thống đến hiện đại. Việc phối hợp sử dụng
các phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh sẽ
nâng cao được chất lượng dạy học bộ môn và đáp ứng nhu cầu phát triển của xã
hội. Nhận thức được điều đó, tập thể giáo viên trường Tiểu học Chấn Hưng
chúng tôi luôn luôn tìm tòi, vận dụng các phương pháp và các hình thức tổ chức
dạy học mới một cách phù hợp ở tất cả các bộ môn trong đó có môn Toán.
Nhiệm vụ giảng dạy môn Toán trong nhà trường là trang bị cho học sinh
những kiến thức nền tảng, cơ bản nhất. Để học sinh học tập một cách chủ
động, linh hoạt; và sáng tạo, biết vận dụng kiến thức lí thuyết sách vở vào thực
tiễn thì giáo viên phải sử dụng nhiều phương pháp, hình thức tổ chức dạy học
linh hoạt để kích thích sự tò mò, ham khám phá, chiếm lĩnh kiến thức của học
sinh.
Qua nhiều năm giảng dạy và bồi dưỡng học sinh lớp 5 – lớp cuối bậc Tiểu
học, tôi nhận thấy việc giúp học sinh hiểu và vận dụng kiến thức một cách hiệu
quả của các môn học nói chung và môn Toán nói riêng là vấn đề không đơn giản
với mỗi giáo viên. Học toán đòi hỏi ở mỗi học sinh sự huy động tư duy vào
chiếm lĩnh kiến thức vào việc giải toán và hình thành các kĩ năng học toán. Thực
tế giảng dạy cho thấy, những em có khả năng nhận thức tốt thì say mê học tập.
Những em yếu kém thì lười học, sợ học và chán học môn toán nên dẫn đến kết
quả học tập hạn chế. Chương trình môn Toán 5 có nội dung được sắp xếp thành
các dạng toán điển hình như: Số thập phân – các phép tính với số thập phân; Số
đo thời gian – toán chuyển động đều; ... Trong đó dạng toán về chuyển động
đều là dạng toán tương đối khó và mới mẻ với học sinh, nhiều em gặp khó khăn
khi học dạng toán này. Thực tế cho thấy, khả năng hiểu, nắm bắt nội dung và
trình bày bài toán về chuyển động của học sinh còn nhiều hạn chế (ở nhiều mức
độ khác nhau). Học sinh chỉ giải được các bài toán này khi các dữ kiện được cho
một cách tường minh. Vì vậy học sinh thiếu đi sự tư duy logic, vận dụng kiến
3
- thức một cách sáng tạo. Một phần nữa nhiều giáo viên chưa có phương pháp
hướng dẫn cụ thể, chưa giúp học sinh hiểu bản chất và cách giải của bài toán.
Để góp phần nâng cao cao hiệu quả dạy và học môn toán lớp 5 nói chung
và dạng toán chuyển động đều nói riêng, tôi đã đầu tư thời gian nghiên cứu và
mạnh dạn đưa ra sáng kiến kinh nghiệm “ Một số biện pháp rèn kĩ năng giải
toán chuyển động đều cho học sinh lớp 5 ”. Tôi muốn giúp học sinh biết tư duy
một cách tích cực và linh hoạt, huy động hết các kiến thức và khả năng sẵn có
vào các tình huống khác nhau, trong điều kiện phải biết phát hiện những dữ kiện
hay điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh và ở chừng mực nào đó,
phải biết suy nghĩ, vận dụng vào phân tích, tìm lời giải cho các bài toán có nội
dung phát triển cao hơn. Để đạt được những mục tiêu đề ra của môn học, điều
đầu tiên là mỗi giáo viên phải nắm chắc mục tiêu, nội dung kiến thức có thể
khai thác trong từng bài học, phần nội dung. Một yếu tố nữa không kém phần
quan trọng là giáo viên phải sử dụng những phương pháp dạy và học tích cực,
tạo hứng thú cho học sinh trong học toán. Góp phần phát triển năng lực tư duy,
phân tích tổng hợp các dạng bài nói chung và dạng toán chuyển động đều nói
riêng.
2. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán chuyển động đều
cho học sinh lớp 5”
3. Tác giả sáng kiến:
Họ và tên: Nguyễn Phú Thọ
Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường Tiểu học Chấn Hưng
Số điện thoại: 0978112235
Email: nguyenphutho.c1chanhung@vinhphuc.edu.vn
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
Họ và tên: Nguyễn Phú Thọ
Chức vụ: Giáo viên
Địa chỉ: Trường Tiểu học Chấn Hưng, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc.
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
5.1. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
Sáng kiến có thể áp dụng để rèn kĩ năng giải các bài toán có nội dung liên quan
đến dạng toán chuyển động đều cho học sinh khối lớp 5 trong nhà trường Tiểu học.
4
- Áp dụng bồi dưỡng học sinh năng khiếu, các câu lạc bộ toán học trong và ngoài
nhà trường.
Bồi dưỡng học sinh tham gia các sân chơi trí tuệ, các cuộc thi học sinh năng
khiếu môn Toán.
5.2. Vấn đề mà sáng kiến giải quyết
Giúp học sinh có kĩ năng trong việc tìm hiểu, phân tích bài toán và phương
pháp giải dạng toán một cách nhanh và chính xác.
Học sinh biết nhận diện dạng toán, phân tích các dữ kiện đã có và yêu cầu
tính của đề toán để tìm lời giải cho bài toán bài toán.
Đề xuất một số nội dung và ý kiến để góp phần nâng cao chất lượng dạy
– học dạng toán chuyển động đều trong môn Toán lớp 5.
Góp phần nâng cao kết quả học tập môn toán của học sinh lớp 5 nói chung
và phần toán chuyển động nói riêng. Từ đó nâng cao chất lượng dạy và học,
tránh trường hợp học sinh ngồi nhầm lớp.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử
Sáng kiến bắt đầu được áp dụng từ tháng 04 năm 2019
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
7.1. Cơ sở lí luận và thực tiễn
7.1.1. Cơ sở lí luận:
Toán học luôn gắn liền với thực tế của cuộc sống con người từ xưa đến
nay. Mục tiêu hàng đầu của dạy học toán là trang bị kiến thức, kĩ năng, phương
pháp học tập khoa học và sáng tạo, góp phần quan trọng trong việc xây dựng
khả năng tư duy cho học sinh nhất là với học sinh tiểu học. Dạy và học toán ở
Tiểu học đòi hỏi vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy
học cho phù hợp với mục tiêu, nội dung và khả năng nhận thức, đặc điểm tâm
sinh lí của học sinh. Toán học mang tính trừu tượng, khái quát cao nhưng nhưng
lại có một ý nghĩa vận dụng vào thực tiễn rất lớn. Các bài toán có nội dung
chuyển động cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng với cuộc sống con người
cũng như trong nghiên cứu khoa học. Khi dạy học dạng toán chuyển động đều,
giáo viên cần vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học, nắm được mối quan hệ
giữa toán học và thực tế đời sống. Giúp học sinh có kĩ năng giải quyết các bài
toán một cách hiệu quả.
5
- 7.1.2. Cơ sở thực tiễn:
Để học sinh giải quyết được các bài toán có nội dung về chuyển động
đều, giáo viên phải giúp các em nắm chắc các đại lượng vận tốc, quãng đường,
thời gian và mối quan hệ giữa các đại lượng đó. Bản chất của bài toán là dựa
vào các dữ kiện đã cho để tìm ra lời giải qua mối quan hệ của các đại lượng
như:
v = s : t ; s = v × t ; t = s : v
(Trong đó: s là kí hiệu của quãng đường; v là kí hiệu của vận tốc; t là kí
hiệu của thời gian)
Để phù hợp với nhận thức của học sinh tiểu học, giáo viên cần hình thành
cho học sinh kĩ năng giải toán bằng phương pháp số học. Học sinh hiểu được
nội dung bài toán, tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng (là phương pháp trực
quan hiệu quả nhất) và tìm ra các bước giải cho bài toán.
Ví dụ cụ thể minh họa cho cơ sở thực tiễn: Một ô tô đi được quãng đường dài
170km hết 4 giờ. Hỏi trung bình mỗi giờ ô tô đó đi được bao nhiêu kilômét ?
Để giải bài toán này giáo viên giúp học sinh tìm hiểu đề bài, gợi ý cho học
sinh vẽ được sơ đồ đoạn thẳng minh họa và giải bài toán như sau:
Phân tích: Ta coi quãng đường ôtô đi trong 4 giờ là một đoạn thẳng (ứng
với 170 km), chia đoạn thẳng thành 4 phần bằng nhau. Như vậy độ dài của mỗi
phần là quãng đường trung bình ôtô đi trong một giờ.
Bài giải:
Trung bình mỗi giờ ô tô đó đi được số km là
: 170 : 4 = 42,5 (km)
Đáp số : 42,5km.
Như vậy, khi dạy dạng toán này giáo viên cần hướng dẫn học sinh hiểu các
dữ liệu và yêu cầu của đề. Phân tích, tóm tắt đề toán và tìm ra các bước giải
một cách sáng tạo và hợp lí.
7.2. Về nội dung sáng kiến
7.2.1. Thực trạng dạy và học dạng toán chuyển động đều ở lớp 5
6
- 7.2.1.1. Thực trạng
Trong chương trình toán lớp 5, nội dung về toán chuyển động đều được
đánh giá là khá phức tạp. Khi giảng dạy, chúng tôi luôn thực hiện nghiêm túc và
đầy đủ nội dung đồng thời tìm tòi thêm các nội dung các bài luyện tập giúp học
sinh củng cố nắm vững kiến thức. Để nắm được kết quả dạy và học dạng toán
chuyển động đều ở trường mình, khi các em học về dạng toán này tôi đã tiến
hành dự giờ thăm lớp, đồng thời cho các em làm một bài kiểm tra ngắn gồm 3
bài tập về dạng toán này. Đề kiểm tra được thiết kế đảm bảo nội dung trong
chương trình sách giáo khoa, các bài được sắp xếp theo thứ tự từ dễ đến khó.
Bài 1: Một chiếc ca nô đi với vận tốc trung bình là 15,2 km/giờ. Tính quãng
đường đi được của ca nô đó trong 3 giờ. (BT1 – trang 141, SGK Toán 5).
Bài 2: Một chiếc xe máy đi qua một chiếc cầu dài 1520m hết 2 phút. Tính vận
tốc của chiếc xe máy đó với đơn vị đo là km/giờ. (BT2 – trang 144, SGK Toán 5).
Bài 3: Một xe máy đi từ A lúc 7 giờ 35 phút với vận tốc 36 km/giờ. Đến 10 giờ 5
phút một ô tô cũng đi từ A đuổi theo xe máy với vận tốc 54 km/giờ. Hỏi ô tô đó
đuổi kịp xe máy vào lúc mấy giờ ? (BT3 – trang 146, SGK Toán 5).
Sau khi tổng hợp số liệu, kết quả thu được ở các lớp như sau:
Tóm tắt chính xác Giải chính xác
Bài toán Lớp Lớp
5A 5B 5C 5A 5B 5C
Bài 1 86% 80.5% 82% 86% 78.5% 80%
Bài 2 77.5% 70.5% 68% 75% 67% 63%
Bài 3 52% 37.6% 30% 45.5% 32% 24.5%
Qua kết quả thu được tôi nhận thấy trình độ nhận thức của các lớp không
chênh lệch nhiều nhưng so với yêu cầu về kĩ năng giải toán thì còn rất thấp. Qua
phân tích kết quả thu được, tôi thấy có một số nguyên nhân nổi bật sau :
* Về học sinh:
7
- Các em chưa thực sự nắm chắc kiến thức về dạng toán chuyển động, còn
tình trạng các em chưa đọc kĩ, chưa hiểu hết nội dung và yêu cầu đề bài. Một số
em hiểu nhưng tóm tắt bài toán chưa tốt, việc tìm ra các dữ kiện của bài toán rất
khó khăn. Các em còn nhầm lẫn mối quan hệ giữa các đại lượng như quãng
đường, vận tốc, thời gian, chưa thành thạo trong việc đổi các đơn vị đo trong bài
toán.
* Về giáo viên:
Giáo viên còn chưa thay đổi được thói quen giảng giải nhiều làm cho các
em mất đi tính sáng tạo, tiếp thu bài một cách thụ động và giải toán một cách
máy móc theo bài mẫu hay cách giải mẫu của thầy cô.
Hơn nữa, các hình thức tổ chức dạy học còn nghèo nàn, chủ yếu là giáo viên
giảng mẫu – học sinh làm theo mẫu. Giáo viên chưa thực sự là người tổ chức
hướng dẫn để học sinh chủ động chiếm lĩnh kiến thức (như thảo luận nhóm,
trao đổi cặp, liên hệ thực tế,...). Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình
tiếp thu kiến thức mới của các em, học sinh không hiểu bản chất của bài toán
cũng như tìm ra các phương pháp giải tối ưu nhất cho bài toán.
7.2.1.2. Nguyên nhân:
Thực tế cho thấy, việc dạy và học dạng toán chuyển động đều ở khối lớp
5 trường tôi còn nhiều bất cập. Giáo viên chưa nhận thức hết được tầm quan
trọng và ý nghĩa của việc đổi mới các phương pháp dạy học, chưa nắm được
hết mặt mạnh, mặt hạn chế của từng phương pháp và các hình thức tổ chức
dạy học. Giáo viên chưa nghiên cứu sâu bài dạy, còn lệ thuộc vào sách hướng
dẫn (SGK, SGV), thiếu sự vận dụng sáng tạo trong mỗi bài học. Giáo viên còn
tham kiến thức, chưa xác định được trọng tâm bài dạy, hay kéo dài thời gian dẫn
đến tâm lí học sinh không hứng thú trong giờ học. Việc lựa chọn nội dung dạy
học, sắp xếp hợp lí nội dung kiến thức từ đơn giản đến phức tạp, từ làm theo
mẫu đến vận dụng vào thực tế còn nhiều hạn chế. Do đây là một dạng toán
tương đối khó với học sinh, có nhiều mối quan hệ và thuật ngữ toán học trừu
tượng nên học sinh gặp nhiều khó khăn, chất lượng đạt được chưa đáp ứng với
yêu cầu đề ra.
7.2.2. Một số biện pháp thực hiện:
7.2.2.1. Mục đích:
8
- Giúp giáo viên có nhận thức đúng đắn về vai trò và tầm quan trọng của
nội dung toán chuyển động đều trong chương trình toán 5. Biết lựa chọn một
cách phù hợp và sáng tạo các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học hiệu
quả, lựa chọn và sắp xếp nội dung dạy học hợp lí phù hợp với đặc điểm học
sinh của mình.
Giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một cách đầy đủ và phù hợp với khă
năng. Tránh những sai sót trong phân tích đề và giải toán, có sự vận dụng sáng
tạo nội dung kiến thức trong học tập và cuộc sống.
7.2.2.2. Phương pháp:
Dạng toán chuyển động đều ở lớp 5 thục chất là dạng bài toán về các số
đo đại lượng. Các bài toán liên quan đến 3 đại lượng cơ bản là quãng đường (s),
vận tốc (v) và thời gian (t).
Nội dung cac bài toán được đưa ra thường là: Cho biết một hay một số các
đại lượng trong một mối liên hệ nào đó với các đại lượng còn lại trong một
chuyển động đều. Tìm các yếu tố còn lại chưa biết. Vì vậy, mục đích chính của
nội dung dạy học nội dung toán chuyển động đều là giúp học sinh phân tích dữ
kiện đề bài kết hợp với kiến thức lí thuyết để tìm hiểu được mối quan hệ giữa
đại lượng đã biết và đại lượng chưa biết (cần tìm), chỉ ra và thực hiện phép tính,
trình bày lời giải cho bài toán.
Nhằm đạt được mục đích trên, giáo viên cần chú ý đến các nội dung sau:
Giúp học sinh biết giải bài toán bằng nhiều cách khác nhau nhất có thể.
Lường trước những tồn tại, sai lầm và những khó khăn học sinh sẽ gặp
phải khi học nội dung này.
Giúp học sinh nắm vững các khái niệm (lí thuyết), mối quan hệ giữa các
đại lượng và thực hiện các bước giải bài toán một cách chính xác.
Rèn cho học sinh có năng khiếu toán học khả năng tổng hợp, nhận diện
dạng toán.
* Phần gi ải toán: Đây là bước quan trọng mà giáo viên cần chú ý trước khi
tiến hàng dạy học sinh. Khi tự mình giải toán trước khi dạy, giáo viên m ới có
thể hình dung được những sai lầm mà học sinh thường dễ gặp phải. Hơn nữa
giáo viên sẽ biết định hướng cho học sinh tìm nhiều hướng giải khác nhau cho
9
- bài toán. Giáo viên cần tìm những biện pháp khen ngợi, động viên nhằm kích
thích hứng thú học tập của học sinh.
* Dự kiến trước khó khăn sai lầm mà học sinh dễ gặp:
Đây là một việc làm rất quan trọng trong quá trình giảng dạy toán. Từ
những dự kiến đó, giáo viên sẽ tìm ra những lựa chon tốt nhất để đưa vào dạy
học từng nội dung cụ thể.
Với dạng toán chuyển động đều, học sinh lớp 5 có thể hay mắc phải
những lỗi cơ bản như :
Tính toán sai
Viết sai các đơn vị đo (m/giờ, km/giờ, m/phút, ... )
Chưa phân biệt được giữa khoảng thời gian và thời điểm
Sử dụng nhầm công thức tính cho các đại lượng
H ọc sinh nhầm lẫn hoặc gặp khó khăn khi đưa bài toán chuyển động
ngược chiều (hoặc chuyển động cùng chiều) không cùng thời điểm xuất phát về
dạng bài toán chuyển động ngược chiều (hoặc chuyển động cùng chiều) cùng
một thời điểm xuất phát.
Các câu trả lời không phù hợp với nội dung phép tính.
* Hướng dẫn học sinh thực hiện các bước giải bài toán.
T ổ chức cho học sinh phân tích, nhận diện nội dung bài toán bằng các
bước cụ thể như :
+ Đọc đề bài bài toán.
+ Phân tích các dữ kiện (số liệu) của đề bài để biết bài toán cho bi ết gì ?
Bài toán yêu cần phải tìm đại lượng nào?
Tìm cách giải bài toán bằng các thao tác (bước tính) cụ thể:
+ Tóm tắt đề bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng hoặc bằng lời.
+ Dựa vào nội dung tóm tắt trình bỳ lại bài toán (hiểu đề bài)
+ Xây dựng các bước giải cho bài toán, thông thường xuất phát từ yêu cầu
cần tìm của bài toán đi đến các yếu tố đã biết. Chỉ ra mối quan hệ giữa các dữ
10
- kiện đã cho với nội dung bài toán yêu cầu tìm và nêu được đúng phép tính thích
hợp.
Tiến hành giải và trình bày lời giải theo các bước:
+ Viết câu lời giải
+ Viết phép tính tương ứng (nên tính cụ thể ra nháp trước khi trình bày)
+ Viết đáp số
Kiểm tra kết quả: kiểm tra các dữ liệu, kiểm tra nội dung các phép toán,
kiểm tra câu lời giải, đối chiếu đáp số cuối cùng với yêu cầu bài toán.
* Rèn kĩ năng khái quát hóa nội dung toán học:
Lập các bài toán tương tự với bài toán đã giải và giải các bài toán đó.
Lập bài toán theo tóm tắt đã cho (từ một tóm tắt bằng sơ đồ hoặc bằng
chữ, học sinh nêu được một đề toán hoàn chỉnh).
7.2.3. Nội dung thực hiện
7.2.3.1 Về lí thuyết
Giúp học sinh nắm chắc về tên, kí hiệu, các đơn vị đo thường dùng trong toán
chuyển động:
Đại lượng Kí hiệu Đơn vị đo
Vận tốc v km/giờ, km/phút, m/phút, m/giây
Quãng đường s m hoặc km
Thời gian t giờ, phút, giây
Giúp học sinh nắm được những công thức thường sử dụng:
+ Công thức tính vận tốc (v) : v = s : t
+ Công thức tính quãng đường (s) : s = v x t
+ Công thức tính thời gian (t) : t = s : v
Lưu ý: Trong mỗi công thức trên, các đại lượng phải được sử dụng trên cùng
một hệ thống đơn vị đo, thường dùng như sau:
11
- Đơn vị đo quãng đường Đơn vị đo thời gian Đơn vị đo vận tốc
km giờ km/giờ
km phút km/phút
m phút m/phút
m giây m/giây
Giúp học sinh nắm thêm được quan hệ tỉ lệ giữa các đại lượng vận tốc, quãng
đường, thời gian:
+ Khi hai vật chuyển động cùng vận tốc thì quãng đường tỉ lệ thuận với thời
gian.
+ Khi hai vật chuyển động cùng thời gian thì quãng đường tỉ lệ thuận với vận
tốc.
+ Khi hai vật chuyển động cùng quãng đường thì thời gian tỉ lệ nghịch với vận
tốc.
Giúp học sinh nắm được cách giải bài toán trong trường hợp hai vật chuyển
động ngược chiều hoặc cùng chiều.
+ Hai vật chuyển động ngược chiều trên cùng một quãng đường và khởi hành
cùng một lúc và hướng về phía nhau để gặp nhau.
+ Hai vật chuyển động cùng chiều trên cùng một quãng đường và khởi hành
cùng một lúc để đuổi kịp nhau (điểm xuất phát khác nhau).
+ Hai vật cùng xuất phát một lúc từ một điểm chuyển động ngược chiều nhau
để rời xa nhau.
7.2.3.2 Một số nội dung, phương pháp dạy giải toán chuyển động đều
cho học sinh lớp 5
* Phân loại các dạng bài toán chuyển động đều :
Trong chương trình toán lớp 5 nói chung và phần nội dung về toán
chuyển động đều nói riêng thì các bài toán được xây dựng theo hướng từ đơn
giản và nâng cao dần. Cụ thể :
12
- a) Loại đơn giản (Giải trực tiếp bằng cách áp dụng công thức,
thường dành cho các tiết dạy học bài mới).
Dạng 1: Tính vận tốc của một vật chuyển động đều.
Biết quãng đường (s), thời gian (t). Tính vận tốc ( v).
Cách làm: Ta lấy quãng đường (s) chia cho thời gian (t).
Công thức : v = s : t
( Đơn vị của vận tốc thường là : km/giờ, m/phút, m/giây, ...).
Dạng 2: Tìm độ dài quãng đường chuyển động của vật.
Biết vận tốc (v), thời gian (t). Tính quãng đường vật đi được.
Cách làm: lấy vận tốc (v) nhân với thời gian (t).
Công thức: s = v x t
( Đơn vị của quãng đường thường là: km, m, cm, …).
Dạng 3: Tìm khảng thời gian chuyển động của vật.
Biết quãng đường (s) và vận tốc (v). Tính thời gian vật chuyển động.
Cách làm: lấy quãng đường (s) chia vận tốc (v).
Công thức: t = s : v
(Đơn vị của thời gian thường là: giờ, phút, giây).
b) Dạng toán có nội dung phát triển:
Dạng bài toán này thường cho nhiều dữ kiện hay nhiều vật tham gia
chuyển động. Học sinh phải biết phân tích vận dụng công thức linh hoạt.
Dạng 1: Hai vật chuyển động ngược chiều nhau (cùng thời điểm hoặc khác thời
điểm):
Quãng đường = Tổng vận tốc của hai vật x Tổng thời gian chuyển động.
+ Công thức: s = (v1+v2) x t.
Thời gian = Tổng độ dài quãng đường : Tổng vận tốc.
+ Công thức: t = s : (v1+v2)
13
- Tổng vận tốc các vật = Tổng quãng đường : Tổng thời gian của các vật.
+ Công thức: (v1+v2)= s : t
Dạng 2: Hai vật chuyển động cùng chiều đuổi theo nhau (hai vật xuất phát cùng
thời điểm hoặc không cùng thời điểm).
Quãng đường = Hiệu vận tốc x thời gian.
+ s = (v1 v2) x t.
Thời gian = Quãng đường : Hiệu vận tốc.
+ t = s : (v1v2).
Hiệu vận tốc của hai vật = Quãng đường : Thời gian.
+ (v1 v2) = s : t.
Dạng 3: Bài toán về chuyển động của vật trên dòng nước
Dạng này cần lưu ý cho học sinh phân biệt các khái niệm chuyển động xuôi
dòng, chuyển động ngược dòng.
V xuôi dòng = V riêng + V dòng nước.
V ngược dòng = V riêng – V dòng nước.
V dòng nước = (V xuôi dòng + V ngược dòng) : 2.
Dạng 4: Vật chuyển động và chiều dài của vật đó là đáng kể.
Chuyển động của vật có chiều dài đáng kể (kí hiệu chiều dài của vật là
L) chuyển động qua các vật trong các trường hợp.
+ Vật chuyển động qua mốc (cột điện, cột cây số, cột đèn):
Thời gian vật chuyển động qua cột mốc sẽ tính bằng bằng chiều dài vật
chia vận tốc của vật (t = L : v)
+ Vật chuyển động qua cầu, cầu có chiều dài là d ta có:
Thời gian đi qua = (L + d) : v.
Dạng 5: Bài toán có nội dung Vòi nước chảy
Đây cũng là một biến thể của dạng toán chuyển động đều với giải thiết tốc độ
chảy của cùng một vòi ở các thời điểm khác nhau là không thay đổi.
14
- Bài toán thường có các đại lượng là: Thể tích của nước ta coi tương tự như
tính với quãng đường, tính theo lít hoặc m3 hay dm3; Đại lượng thời gian và đại
lượng tốc độ chảy (lưu lượng) của vòi nước (số lít nước).
Thể tích = Lưu lượng x Thời gian; Thời gian = Thể tích : Lưu lượng;
Lưu lượng = Thể tích : Thời gian.
* Một số yêu cầu cần chú ý khi dạy học dạng toán:
Những yêu cầu cơ bản học sinh cần đạt sau khi học xong nội dung toán
chuyển động đều là:
Biết nhận diện, phân tích các dữ kiện của bài toán : Tóm tắt bài toán,
chỉ ra được các đại lượng đã cho và đại lượng cần tìm.
Biết lựa chọn và sử dụng cách giải phù hợp nhất cho mỗi bài toán.
Mỗi bài, dạng toán thường có các cách giải khác nhau (sơ đồ, suy luận, ...).
Trình bày bài toán theo logic các bước giải phù hợp.
Thể hiện được tư duy cá nhân trong việc trình bày, nội dung bài làm,
vận dụng kiến thức.
* Một số chú ý khi dạy giải các bài toán chuyển động đều
+ Dạng toán chuyển động đều được đánh giá là có nội dung khá phức
tạp, có nhiều dạng loại khác nhau dễ gây nhầm lẫn. Trong quá trình dạy học,
giáo viên cần chú ý một số điểm quan trọng như :
+ Hướng dẫn học sinh phân tích, tóm tắt bài toán càng chi tiết càng tốt.
Học sinh nên tóm tắt bằng sơ đồ vì nó có tính trực quan dễ hiểu.
+ Trong quá trình dạy bài mới, giáo viên chú ý khắc sâu kiến thức cơ
bản. Học sinh phải hiểu được bản chất của vấn đề, hình thành và vận dụng
công thức vào giải toán một cách chính xác và tường minh.
+ Trong quá trình giải toán, giáo viên khuyến khích học sinh tìm ra nhiều
cách giải khác nhau và lựa chọn cách giải hay nhấy.
+ Giúp học sinh nắm vững mối quan hệ giữa ba đại lượng cơ bản của
toán chuyển động (quãng đường – vận tốc – thời gian). Vận dụng linh hoạt
vào các dạng bài toán khác nhau.
15
- 7.2.4. Bài tập thực hành vận dụng và các bài tập có nội dung nâng cao
Việc hướng dẫn học sinh áp dụng kiến thức lí thuyết đã được học ở trên
vào làm các bài tập vận dụng cần được giáo viên đặc biệt chú trọng. Ngoài các
bài tập thực hành trong sách giáo khoa, giáo viên cần coi trọng thực hành gắn
với thực tiễn cuộc sống học sinh, có như vậy các em mới thực sự có hứng thú
trong học tập. Nội dung các bài tập cần được sắp xếp đi từ dễ đến khó, từ làm
theo mẫu (thay số) đến việc giải các bài toán có nội dung nâng cao hơn nhằm
phát triển khả năng tư duy sáng tạo của học sinh và phục vụ việc phát hiện, bồi
dưỡng học sinh có năng khiếu.
Với mỗi dạng bài tập, giáo viên cần tìm ra những bài toán có nội dung
điển hình, hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài và tìm ra cách giải hay nhất cho bài
toán. Từ cơ sở nắm vững kiến thức cơ bản, giáo viên sẽ dần đưa ra các bài tập
cùng dạng nhưng với nội dung cao hơn để khích lệ học sinh nỗ lực tìm ra lời
giải cho bài toán đó.
Dưới đây là một số dạng bài tập của toán chuyển động mà tôi đã tuyển
chọn để hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức đã học từ cơ bản đến nâng cao
dần về nội dung.
7.2.4.1. Tính vận tốc:
Bài toán 1: Một máy bay bay được 1800km trong 2,5 giờ. Tính vận tốc của máy
bay. (BT2 – SGK, trang 139).
Với bài toán này học chỉ chỉ việc vận dụng một cách đơn thuần công thức
tính vận tốc để tìm ra lời giải.
* Dự kiến những lỗi sai học sinh dễ mắc phải :
Tính sai kết quả.
Viết không chính xác đơn vị đo.
* Hướng dẫn học sinh thực hiện các bước giải.
Hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài toán (cái đã cho và cái cần tìm).
Xác định yếu tố đã biết và dữ kiện phải tìm.
+ Bài toán cho chúng ta biết gì ? (quãng đường dài 1800 km, thời gian đi
trong 2,5 giờ).
+ Bài toán yếu cầu tìm gì ? (tìm vận tốc).
16
- Hướng dẫn học sinh xác định dạng toán: bài toán thuộc dạng tìm vận tốc của
vật khi biết thời gian và quãng đường vật chuyển động.
Tóm tắt bài toán:
Tóm tắt:
S = 1800km
t = 2,5 giờ
v = ?
Học sinh diễn đạt bài toán thông qua tóm tắt ( Các em diễn đạt lại đề bài qua
tóm tắt sẽ thể hiện việc hiểu đề bài)
* Tìm các bước giải cho bài toán:
Muốn tìm vận tốc của máy, chúng ta đã biết những đại lượng nào ?
Nêu lại công thức tính vận tốc của một vật ? (v = s : t)
Dựa vào quãng đường và thời gian đã biết, ta tìm vận tốc như thế nào ? (1800 :
2,5 = 720)
* Học sinh trình bày bài giải cụ thể cho bài toán:
Vận tốc của máy bay là:
1800 : 2,5 = 720 (km/h)
Đáp số: 720km/giờ.
Bài toán 2: Một ca nô đi từ 6 giờ 30 phút đến 7 giờ 45 phút được quãng đường
30km. Tính vận tốc của ca nô đó.
Với bài toán này học sinh cần phân tích các dữ kiện của bài toán, tiến hành tính
và đổi các đơn vị đo trước khi vận dụng công thức để giải.
Phân tích: Bài toán cho biết đại lượng quãng đường s = 30 km, thời gian đi
từ 6 giờ 30 phút đến 7 giờ 45 phút. Cần tính thời gian theo đơn vị giờ (7 giờ 45
phút 6 giờ 30 phút = 1 giờ 15 phút = 1,25 giờ). Công thức áp dụng t = s : v.
Bài giải
Thời gian ca nô đó đi là:
7 giờ 45 phút – 6 giờ 30 phút = 1 giờ 15 phút
Đổi: 1 giờ 15 phút = 1,25 giờ
17
- Vận tốc của ca nô là:
30 : 1,25 = 24 (km/giờ)
Đáp số: 24 km/giờ.
Bài toán 3: Một ô tô dự định chạy từ tỉnh A đến tỉnh B lúc 16 giờ. Nếu chạy với
vận tốc 60 km/giờ thì ô tô sẽ đến B lúc 15 giờ còn nếu chạy với vận tốc 40
km/giờ thì ô tô sẽ đến B lúc 17 giờ. Hỏi ô tô phải chạy với vận tốc bao nhiêu để
đến B đúng 16 giờ?
Với bài toán có nội dung nâng cao này, giáo viên cần hướng dẫn học sinh
tìm hiểu các dữ kiện, tìm ra mối quan hệ giữa các đại lượng đã cho và cần tìm
để tìm cách giải tốt nhất.
Bài giải
Cách 1:
Với vận tốc 60 km/giờ có nghĩa là ô tô cứ đi 1 km thì hết 1 phút.
Với vận tốc 40 km/giờ thì ô tô cứ đi 1 km thì hết 1 phút 30 giây.
So với khi ô tô chạy với vận tốc 60 km/giờ thì ô tô chạy với vận tốc 40
km/giờ sẽ đến B chậm hơn 17 – 15 = 2 giờ, tức là 7200 giây.
Ô tô cứ chạy 1 km với vận tốc 40 km/giờ thì sẽ chậm hơn khi ô tô chạy
với vận tốc 60 km/giờ là:
1 phút 30 giây – 1 phút = 30 giây
Do đó quãng đường AB dài là:
7200 : 30 = 240 (km)
Ô tô chạy từ A đến B với vận tốc 60 km/giờ hết số thời gian là:
240 : 60 = 4 (giờ)
Suy ra, thời gian quy định để chạy từ A đến B là 5 giờ.
Vận tốc ô tô đó là:
240 : 5 = 48 (km/giờ)
Đáp số: 48 km/giờ.
Cách 2:
18
- Nếu ô tô đó chạy với vận tốc 40 km/giờ thì mỗi giờ ô tô sẽ chạy được ít
hơn 20km so với khi chạy với vận tốc là 60 km/giờ. Lúc đó ô tô sẽ đến B muộn
hơn 2 giờ. Quãng đường ô tô đi trong 2 giờ đó là:
40 x 2 = 80 (km)
Số giờ ô tô đó đã chạy để ít hơn quãng đường 80km là:
80 : 20 = 4 (giờ)
Ô tô chạy với vận tốc 60 km/giờ trong 4 giờ thì tới B, vậy quãng đường
AB dài là:
60 x 4 = 240 (km)
Thời gian theo dự định để ô tô đi từ A đến B là:
4 + 1 = 5 (giờ)
Vận tốc của ô tô đó là:
240 : 5 = 48 (km/giờ)
Đáp số: 48 km/giờ.
7.2.4.2. Tính quãng đường
Bài toán 1: Một người đi xe đạp trong 15 phút với vận tốc 12,6 km/giờ. Tính
quãng đường đi được của người đó.
Với bài toán này giáo viên cần lưu ý học sinh về đơn vị đo thời gian, học sinh
cần chọn (đổi) đơn vị đo thống nhất trước khi tính.
* Dự kiến những sai lầm của học sinh dễ gặp phải :.
Đổi và viết sai đơn vị đo.
Tính không đúng kết quả.
* Hướng dẫn học sinh thực hiện các bước giải bài toán.
Hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài toán (cái đã cho và cái cần tìm).
Xác định dữ kiện đã cho và dữ kiện phải tìm.
+ Bài toán cho biết những gì ? (vận tốc đi xe 12,6 km/giờ, thời gian đi trong
15 phút).
+ Bài toán yêu cầu tìm gì ? (tìm quãng đường).
19
- Cho học sinh xác định được dạng của bài toán: bài toán thuộc dạng biết thời
gian và vận tốc, tìm quãng đường.
Tóm tắt bài toán:
Tóm tắt:
v = 12,6 km/giờ
t = 15 phút
s = ?
Cho lần lượt một số học sinh nêu lại bài toán thông qua tóm tắt.
* Hướng dẫn học sinh giải bài toán:
Bài toán cho ta biết gì ? (biết thời gian theo đơn vị phút).
Làm thế nào để có đơn vị thời gian theo giờ ? (phải đổi đơn vị thời gian 15 phút
= 0,25 giờ).
Nêu công thức để tính quãng đường ? (s = v x t).
Vận tốc và thời gian đã biết, ta tìm quãng đường như thế nào ? (lấy 12,6 x 0,25
= 3,15) (km/h)).
* Trình bày bài giải:
Đổi: 15 phút = 0,25 giờ.
Quãng đường người đó đi được là:
12,6 x 0,25 = 3,15 (km)
Đáp số: 3,15 km.
Bài toán 2: Một xe máy đi từ A lúc 8 giờ 20 phút với vận tốc 42 km/giờ, đến B
lúc 11 giờ. Hỏi quãng đường AB dài bao nhiêu kilômét ?
Với bài toán này giáo viên gợi ý để học sinh sử lí các dữ kiện đã có, tính và
chuyển đổi đơn vị đo thời gian rồi vận dụng công thức để tính quãng đường.
Phân tích: Bài toán cho biết đại lượng quãng đường v = 42 km/giờ, thời
gian từ 8 giờ 20 phút đến 11 giờ. Cần đổi đơn vị đo thời gian theo giờ: 11 giờ
8 giờ 20 phút = 2 giờ 40 phút) . Công thức áp dụng s = v x t.
Bài giải
Thời gian xe máy đi từ A đến B là:
20
- 8
11 giờ 8 giờ 20 phút = 2 giờ 40 phút = giờ.
3
Quãng đường AB dài số km là:
8
42 x = 112 (km)
3
Đáp số: 112 km.
Bài toán 3: Một ô tô phải chạy từ A đến B. Sau khi chạy được 1 giờ thì ô tô
giảm vận tốc chỉ còn bằng 3/5 vận tốc ban đầu, vì thế ô tô đến B chậm mất 2
giờ. Nếu từ A, sau khi chạy được 1 giờ, ô tô chạy thêm 50 km nữa rồi mới giảm
vận tốc thì khi ô tô đến B sẽ chỉ chậm 1 giờ 20 phút. Tính độ dài quãng đường
AB.
Với bài toán này, cần lưu ý cho học sinh yếu tố trên cùng một quãng
đường thì thời gian và vận tốc là hai đại lượng tỉ lệ nghịch. Giả sử vận tốc lúc
đầu là 5 phần thì vận tốc lúc sau chỉ là 3 phần. Do đó, nếu đi với vận tốc ban
đầu hết một khoảng thời gian là 3 phần thì khi đi với vận tốc lúc sau hết một
khoảng thời gian là 5 phần như thế.
Cách 1:
Giả sử sau 1 giờ ô tô chạy tới C.
Nếu thời gian đi trên đoạn CB theo vận tốc ban đầu là 3 phần thì thời gian
đi trên đoạn CB theo vận tốc đã giảm là 5 phần như thế. Hai phần nhiều hơn
ứng với 2 giờ. Vậy 1 phần là 1 giờ, suy ra thời gian đi trên đoạn CB với vận tốc
ban đầu là 3 giờ.
Nếu thời gian đi trên đoạn DB theo vận tốc ban đầu là 3 phần thì thời gian
đi trên đoạn DB theo vận tốc đã giảm là 5 phần như thế. Hai phần nhiều hơn
ứng v ới 1 giờ 20 phút. Vậy thời gian đi trên đoạn DB với vận tốc ban đầu là:
(1 giờ 20 phút x 3) : 2 = 2 giờ
Vậy thời gian đi đoạn CD với vận tốc ban đầu là:
3 giờ 2 giờ = 1 giờ
21
- Suy ra vận tốc ban đầu là 50 km/giờ và quãng đường AB dài là:
50 x (3 + 1) = 200 (km)
Đáp số: 200 km.
Cách 2:
Với vận tốc đã giảm thì:
Thời gian đi trên đoạn AC là:
5 5
1 giờ x = giờ
3 3
Thời gian đi trên đoạn CB là:
5 5
2 giờ x = 2 giờ x = 5 giờ
5−3 2
Thời gian đi trên đoạn AB là:
5 20
giờ + 5 giờ = giờ
3 3
Thời gian đi trên đoạn DB là:
5 4 5 20 10
1 giờ 20 phút x = giờ x = giờ = giờ
2 3 2 6 3
Thời gian đi trên đoạn CD là:
10 5
5 giờ giờ = giờ
3 3
Vận tốc đã giảm là:
5
50 : = 30 (km/giờ)
3
Quãng đường AB dài số km là:
20
30 x = 200 (km)
3
Đáp số: 20 km.
22