SKKN: Kinh nghiệm dạy - học văn học nước ngoài
Cùng với văn học dân tộc, văn chương nước ngoài đã góp phần tạo điều kiện cho học sinh mở rộng tầm nhìn và khả năng cảm thụ tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là những sáng tác được chọn lọc trong kho tàng văn học của các dân tộc. » Xem thêm
Tóm tắt nội dung tài liệu
- Kinh nghiệm dạy - học văn học nước ngoài
MỘT VÀI KINH NGHIỆM TRONG
DẠY-HỌC
VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI Ở TRUNG HỌC CƠ SỞ
Giáo viên : Dương Thị Tố Loan - Trường THCS Hồng Thuỷ 4
- Kinh nghiệm dạy - học văn học nước ngoài
Phần I
ĐẶT VẤN ĐỀ
Văn chương nước ngoài là một bộ phận quan trọng trong chương trình Ngữ văn trung học cơ sở
,gồm những sáng tác dân gian, văn thơ cổ điển, văn thơ hiện đại được chọn và bố trí song song với chương
trình văn học dân tộc. Cùng với văn học dân tộc, văn chương nước ngoài đã góp phần tạo điều kiện cho
học sinh mở rộng tầm nhìn và khả năng cảm thụ tinh hoa văn hoá nhân loại, hiểu biết thêm về cuộc sống
và tài năng sáng tạo của các dân tộc từ đó hiểu rõ hơn đất nước, dân tộc và văn hoá dân tộc đồng thời phát
triển tinh thần quốc tế và ý thức về cộng đồng văn hoá nhân loại.
Đó là những sáng tác được chọn lọc trong kho tàng văn học của các dân tộc. Nói rộng ra đó là tinh
hoa văn hoá nhân loại đủ sức vượt qua sự thử thách khắc nghiệt của thời gian, của không gian đến với
chúng ta hôm nay. Ta bắt gặp ở đây những tác phẩm đã thành mẫu mực của văn học thế giới từ các
chuyện cổ tích như :Cây bút thần (Trung Quốc), Ông lão đánh cá và con cá vàng (Nga ) cho đến các tác
phẩm văn chương nổi tiếng của các nhà văn lớn của các dân tộc cũng là của thế giới như Đôn- ki-hô-tê”
của (Xéc-van-tét), Cô bé bán diêm của (An-đéc-xen), Chiếc lá cuối cùng của (OHen-ry), thơ của Lý Bạch,
Đỗ Phủ; Truyện của Lỗ Tấn, A. Tôn-xtôi, Mô-pa-xăng, Giắc Lơn-đơn, Ai-ma-tốp, các trích đoạn kịch cổ
điển Pháp, Anh của Mô-li-e, Sếc-xpia.
Nhìn chung, đó là những tác phẩm rất giàu giá trị nhân bản, giàu tinh thần dân tộc có tác dụng rất
lớn trong việc giáo dục tình cảm cao đẹp, bồi dưỡng tâm hồn trong sáng và ý thức vươn tới điều thiện để
phát triển và hoàn thiện nhân cách cho học sinh. Đó còn là những tác phẩm có giá trị nghệ thuật lớn, đạt
trình độ mẫu mực được viết ra bởi tài nghệ bậc thầy của các nhà văn xuất sắc.
Giáo viên : Dương Thị Tố Loan - Trường THCS Hồng Thuỷ 5
- Kinh nghiệm dạy - học văn học nước ngoài
Tuy nhiên, trong thực tế dạy và học tác phẩm văn chương nước ngoài ở trung học cơ sở hiện nay
gặp rất nhiều khó khăn mà trước hết khó khăn lớn nhất là khoảng cách khá lớn về không gian và thời gian,
về lịch sử và tâm lý. Đứng trước nhiều tác phẩm văn chương nước ngoài, nhiều giáo viên nhất là học sinh
cảm thấy vô cùng xa lạ. Nếu không được giải thích, hướng dẫn thì trong tiếp cận khó mà hiểu, cảm nổi.
Khó khăn lớn thứ hai là chúng ta dạy và học văn chương nước ngoài trong điều kiện tài liệu, sách
vở phục vụ cho tham khảo còn khan hiếm. Nhiều tác phẩm ,giáo viên mới được nghe lần đầu tiên. Nhiều
tác phẩm ,giáo viên nghe tên nhưng chưa được một lần được nhìn tận mắt. Hầu hết tác phẩm được đưa
vào chương trình giáo viên chỉ biết được qua sách giáo khoa, qua tóm tắt, qua trích đoạn. khó khăn này
không phải một sớm một chiều mà khắc phục được.
Trước những thực trạng khó khăn trong việc tiếp cận, việc dạy và học các tác phẩm văn chương
nước ngoài như vậy, với tấm lòng yêu nghề, yêu bộ môn và trong thực tế giảng dạy ,tôi đã cùng nhiều
đồng nghiệp tìm ra những hướng dạy, bàn cách khắc phục những khó khăn trên để góp phần nâng cao hiệu
quả của các giờ học ngữ văn. Trong khuôn khổ của đề tài này, tôi xin mạnh dạn góp thêm " Một vài kinh
nghiệm trong dạy- học văn học nước ngoài ở THCS".
Phần II
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I, Điều tra thực trạng trước khi nghiên cứu:
Trước khi nghiên cứu và thực nghiệm đề tài này tôi đã cùng với các đồng nghiệp trong nhóm Ngữ
văn của nhà trường tiến hành khảo sát các tiết dạy và học phần văn học nước ngoài trong chương trình đối
với các khối lớp 6, 7, 8,9 trong năm học: 2009- 2010
Giáo viên : Dương Thị Tố Loan - Trường THCS Hồng Thuỷ 6
- Kinh nghiệm dạy - học văn học nước ngoài
1. Hình thức và nội dung khảo sát:
Tập trung vào mảng kiến thức thuộc phần văn học nước ngoài đã dạy thực tế trong chương trình ở các
khối 6, 7, 8, 9 của năm học: 2009-2010.
+ Thông qua các buổi sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn, qua dự giờ đồng nghiệp, thăm lớp rút kinh
nghiệm và đánh giá chất lượng, kết quả của các tiết dạy và học từ đó rút ra những phương pháp và biện
pháp chung trong dạy và học các loại thể văn học nước ngoài.
+ Sử dụng phiếu học tập với những câu hỏi trắc nghiệm để kiểm tra việc nắm kiến thức bài học, sự hiểu
biết của học sinh về các tác giả, tác phẩm văn học nước ngoài.
+ Tiến hành cho học sinh làm các bài kiểm tra viết để đánh giá tổng quát khả năng cảm thụ, phân tích
những giá trị nghệ thuật và nội dung của các tác phẩm văn học nước ngoài.
2, Kết quả khảo sát:
Khối Lớp Sĩ số Giỏi Khá TB Yếu
SL (%) SL (%) SL (%) SL (%)
6B 36 01 2.8 13 36.1 18 50 4 11.1
6 6D 35 02 5.7 16 45.7 12 34.3 5 14.3
7A 40 01 2.5 15 37.5 21 52.5 3 7,5
7 7B 38 0 0 16 42.1 20 52.6 2 5.3
8A 34 01 2,9 17 50 13 38.2 3 8.8
8 8B 38 01 2.6 16 43.2 13 35.1 8 21
Giáo viên : Dương Thị Tố Loan - Trường THCS Hồng Thuỷ 7
- Kinh nghiệm dạy - học văn học nước ngoài
9A 35 1 2,9 20 57.1 11 31.4 03 8.6
9 9D 35 0 0 17 48.6 16 45.7 2 5.7
Qua thực tế và kết quả khảo sát tôi nhận thấy rằng:
+ Sự hiểu biết của học sinh về các tác giả cũng như các tác phẩm văn học nước ngoài được học trong
chương trình còn rất hạn chế.
+ Khả năng tiếp thu và cảm nhận những tác phẩm văn chương nước ngoài chưa cao.
+ Kỹ năng phân tích và cảm thụ những giá trị đặc sắc về nghệ thuật và nội dung các tác phẩm văn
chương nước ngoài còn hời hợt và chưa sâu sắc. Vì vậy số bài đạt điểm khá chưa cao..
+ Ở một vài giáo viên sự hiểu biết về phong tục, tập quán sinh hoạt, quan niệm thẩm mĩ của dân tộc đó
sản sinh ra tác phẩm chưa thật sâu sắc, chưa có điều kiện đọc trọn vẹn các tác phẩm có đoạn trích được
dạy.
II, Những công việc thực tế đã làm và kết quả đạt được.
1. Những nguyên tắc chung:
1a. Muốn dạy tốt các tác phẩm văn chương nước ngoài phải trực tiếp tiếp xúc với tác phẩm:
Có thể coi đây là một yêu cầu nghiêm ngặt đối với giáo viên và học sinh khi dạy học tác phẩm văn
chương. Nhưng với các tác phẩm văn chương nước ngoài thì đây là một yêu cầu khá cao, song phải tìm
mọi cách mà thực hiện cho được. Có thể tổ chức cho tổ, nhóm chuyên môn chia nhau tìm đọc, trao đổi với
nhau. Cũng có thể tổ chức báo cáo trong sinh hoạt chuyên môn hoặc có thể tổ chức ngoại khoá cho học
sinh. Nếu không đọc được tác phẩm thì cũng phải được nghe, được kể, được thảo luận về tác phẩm mà
mình phải dạy và học.
1b. Tìm hiểu những vấn đề liên quan đến tác phẩm:
Giáo viên : Dương Thị Tố Loan - Trường THCS Hồng Thuỷ 8
- Kinh nghiệm dạy - học văn học nước ngoài
Sự hiểu biết về tác giả, về thời đại, về đất nước đó sản sinh ra tác phẩm, những đặc sắc về thiên
nhiên, về tập tục xã hội nhất là về tâm lý dân tộc sẽ giúp ta hiểu và cảm tác phẩm văn chương nước ngoài
rất nhiều. Những điều đó không dễ gì có đươc nếu chúng ta không tìm tòi học hỏi.
Chúng ta sẽ không cảm và hiểu tốt đoạn trích " Đánh nhau với cối xay gió"trong Đôn-ki hô tê của
Xéc-van-tét nếu ta không hiểu biết gì về đất nước Tây Ban Nha thời trung cổ, sự tan giã của ý thức hệ
phong kiến và sự hình thành của ý thức hệ tư sản.
Vì vậy việc tìm đọc các tài liệu có liên quan trên các tạp chí, các sách báo rất cần thiết đối với giáo
viên và học sinh nhất là giáo viên trong việc dạy học tác phẩm văn chương, nhất là tác phẩm văn chương
nước ngoài.
1c. Muốn dạy tốt tác phẩm cần hiểu đúng tác phẩm:
Muốn dạy tốt văn bản thì phải hiểu đúng nó, tìm hiểu nó đúng trong vị trí tác phẩm, hiểu được toàn
bộ tác phẩm và dụng ý nghệ thuật của tác giả ,từ đó mới lựa chọn được vấn đề và cách hướng dẫn học sinh
tìm hiểu, khám phá và lĩnh hội cho phù hợp với trình độ học sinh. Đây là một yêu cầu cao song với tác
phẩm văn chương nước ngoài thì việc hiểu đúng tác phẩm là một yêu cầu quan trọng.
Hầu như giáo viên chỉ mới biết được nhà văn Giắc-lơn-đơn và "Tiếng gọi nơi hoang dã" qua một
đoạn trích không trọn vẹn trong sách giáo khoa. Cũng vì vậy mà chưa hiểu được tinh thần của văn bản
cũng như chưa hiểu sâu sắc tác giả và nội dung toàn bộ tác phẩm. Thực ra, đây chỉ là một đoạn trích trong
tác phẩm
' Tiếng gọi nơi hoang dã"của Giắc-lơn-đơn, một nhà văn Mỹ nổi tiếng thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. “Tiếng
gọi nơi hoang dã" là một kiệt tác của nhà văn nhằm chứng minh: mâu thuẫn giữa sự tạn bạo dã man của
cái gọi là văn minh và sự tự do của loài vật sống hoang dã trong thiên nhiên. Kiệt tác này được nhà văn
viết từ 1903.
Giáo viên : Dương Thị Tố Loan - Trường THCS Hồng Thuỷ 9
- Kinh nghiệm dạy - học văn học nước ngoài
Truyện kể về số phận của con chó Bấc bị bắt cóc mang đi khỏi trang trại của một người chủ giàu có ở
Ca-li-phoóc-ni-a, và bị ném vào vùng Bắc cực hoang dã trong cuộc săn vàng của con người. Thiên nhiên
nguyên thuỷ, sự nghiệt ngã tàn bạo của môi trường đã đánh thức và làm phát triển mạnh mẽ trong đáy sâu
thẳm của nó những bản năng thú dữ của tổ tiên nó. Nó đã sống với đủ hạng người phần lớn họ là những kẻ
độc ác, tàn bạo đối với thú vật. Chỉ có một người là chiếm được thiện cảm của nó bằng lòng nhân đạo và
tình thương yêu rộng lớn. Đó là Giôn Thoóc Tơn.
Truyện toát lên một nhân sinh quan rõ rệt: Lòng thương yêu loài vật, ông cho rằng chỉ có trên cơ sở
một tình thương yêu vô hạn đối với loài vật mới chiến thắng được những con vật, thậm chí là những con
vật dữ tợn.
Tình yêu thương thực sự và nồng nàn đến mức cuồng nhiệt dấy lên trong lòng con chó Bấc thì đến
Giôn Thoóc Tơn mới khơi dậy được những điều đáng tìm hiểu là vì sao mà Bấc yêu thương Giôn Thoóc
Tơn đến mức có những hành động đep đẽ thế? Bởi vì con người này đã cứu sống nó. Nhưng hơn thế nữa,
con người này là một ông chủ lý tưởng. Anh chăm sóc chó của mình như thể chính nó là con cái của anh
vậy.
Có đọc toàn bộ tác phẩm ta mới thấy hết tình thương yêu thực sự của Giôn Thoóc Tơn đối với loài
vật mà cụ thể là đối với con chó Bấc trong sự so sánh với bao nhiêu ông chủ trước đó, trong bối cảnh khốc
liệt của cuộc hành trình dai dẳng dài dặc trên những con đường ngập tuyết, trong cơn tuyệt mệnh của đàn
chó. Chính đây mới là phần cốt yếu của tác phẩm, mới là dụng ý nghệ thuật của tác giả. Chỉ có trên cơ sở
tình yêu vô hạn đối với loài vật mới chiến thắng được những con vật. Nội dung của tác phẩm là thế, tư
tưởng của tác phẩm cũng là thế nhưng nếu chỉ dựa vào tên của văn bản, qua hai chiến công của con chó,
nhiều người chỉ thấy nổi lên hình ảnh “Con chó Bấc” mà thôi.
2, Những công việc thức tế đã làm:
Giáo viên : Dương Thị Tố Loan - Trường THCS Hồng Thuỷ 10
- Kinh nghiệm dạy - học văn học nước ngoài
Dạy học tác phẩm văn chương nước ngoài cũng là dạy-học tác phẩm văn chương nói chung. Đó
cũng là tác phẩm văn chương dân gian, văn chương cổ điển và văn chương hiện đại. Đó cũng là tác phẩm
trữ tình và tự sự. Dạy học tác phẩm văn chương nước ngoài cũng đến phải vận dụng các phương pháp và
biện pháp dạy học tác phẩm văn chương nói chung nhưng với tác phẩm văn chương nước ngoài, do những
đặc điểm, những khó khăn như đã nói ở trên nên ta cần vận dụng những hình thức, biện pháp sao cho hợp
lý và đạt được hiệu quả giờ dạy.
2a. Tìm hiểu bối cảnh lịch sử và hoàn cảnh sáng tác tác phẩm:
Tác phẩm văn chương bao giờ cũng mang trên mình dấu ấn của một thời lịch sử nhất định. Vì vậy
việc tìm hiểu bối cảnh lịch sử và hoàn cảnh sáng tác bao giờ cũng là một yêu cầu có tính nguyên tắc. Dạy
học tác phẩm văn chương nước ngoài thì việc tìm hiểu bối cảnh lịch sử và việc sáng tác thật là việc vô
cùng quan trọng. Vì đây là những điều rất xa lạ đối với học sinh. Sự phụ thuộc của tác phẩm văn chương
vào hoàn cảnh lịch sử sẽ rất khó giải thích cho học sinh nếu như không gắn liền với những điểm phân tích,
đánh giá chung với hoàn cảnh cuộc sống và hoạt động sáng tác của nhà văn. Có như thế mới giúp học
sinh có điều kiện tìm hiểu sâu tác phẩm.
Ví dụ: Dạy học bài: “Thạch Hào lại”( Kẻ lại ở thạch hào) của Đỗ Phủ mà không đả động gì đến hoàn
cảnh xã hội, đến sự biến An Lộc Sơn và Sử Tư Minh (755-763) và sự phức tạp của các mâu thuẫn trong xã
hội đương thời của Trung Quốc thì cũng khó mà hiểu được một cách đúng đắn bài thơ này.
2b. Tìm hiểu phong tục, tập quán sinh hoạt, quan niệm đạo đức, thẩm mĩ của dân tộc đã sản
sinh ra tác phẩm trong mối tương quan với văn hoá dân tộc.
Để hiểu cảm đúng tác phẩm văn chương nước ngoài, giáo viên cần giúp học sinh hiểu được phong
tục, tập quán sinh hoạt cũng như quan niệm đạo đức, thẩm mĩ của dân tộc mà tác phẩm phản ánh trong
mối tương quan với nền văn hoá dân tộc mình.
Giáo viên : Dương Thị Tố Loan - Trường THCS Hồng Thuỷ 11
- Kinh nghiệm dạy - học văn học nước ngoài
Đặt tác phẩm văn học vào mối tương quan văn học của hai dân tộc là để khai thác đến cạn kiệt
những tư tưởng hữu dụng cho đời sống tinh thần công dân tương lai, kích thích những truyền thống tốt
đẹp hiện tại, để hiểu sâu sắc hơn nhân loại.
Cho đến nay, dạy học văn học phục hưng Anh hay Tây Ban Nha trong nhà trường vẫn là vấn đề
khó với thầy và trò. Thời đại phục hưng ở Châu Âu, từ Ý qua Pháp rồi đến nhiều nước. Ở mỗi nước lại có
màu sắc riêng. Vì sao chàng Đôn- ki-hô-tê lại nói nhiều lời có cánh? Nhưng chính chàng lại là một hiệp sĩ
đạo không hợp thời, hình ảnh hiệp sĩ đạo ở Việt Nam học sinh khó hình dung ra. Đôn Ki-hô-tê yêu tự do,
công bằng, nhân đạo, Xan-trô-pan-xa thì thực tế, lạc quan, lành mạnh, yêu đời. Cả hai nhân vật chung đúc
lại đã làm nổi bật truyền thống đạo đức của nhân dân Tây Ban Nha.
Cái mê sảng và cả cái tỉnh táo đến siêu việt của Đôn-ki-hô-tê chứng tỏ Xéc-van-tex tán thành lý
tưởng nhân đạo là tuyệt vời nhưng khó thực hiện được trong thời đại mà tầng lớp quý tộc lại toan làm cái
đó là mơ hồ ảo tưởng. Tác phẩm có nhạo báng sách hiệp sĩ nhưng cơ bản vẫn là khẳng định khát vọng, lý
tưởng nhân văn cao cả của những con người khổng lồ trong một xã hội đầy đen tối xấu xa. Nếu không
cảnh giác, đấy chỉ là một ảo tưởng, một trò cười lịch sử.
Hoặc cái lối “vẽ trăng thấy mây”, “ý ở ngoài lời”, “ý đến mà bút chẳng cần đến”, hay việc sử dụng
vần (nhất, tam, ngũ bất luận; nhị , tứ, lục phân minh), những kiểu đối: Đối thanh, đối ý (24 loại), những
bút pháp lấy“động” tả “tĩnh”; “cao” tả “thấp”; “quá khứ” tả “hiện tại”. trong thơ Đường cũng cần được
học sinh hiểu biết trước khi đi sâu vào tìm hiểu những bài thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Hạ Tri Chương.
Đặt tác phẩm trong mối tương quan văn hoá của hai dân tộc sẽ giúp cho việc nghiên cứu tác phẩm
cụ thể nhận ra và làm phong phú hơn đời sống tâm hồn và tình cảm dân tộc của mỗi người khi tiếp xúc với
tác phẩm. Trên thực tế trong quá trình tiếp xúc với tác phẩm dù thế nào cũng vẫn gợi ra sự liên tưởng so
sánh nhất định nhưng trong chương trình văn học nước ngoài ở Trung học cơ sở, có rất nhiều điểm khác
Giáo viên : Dương Thị Tố Loan - Trường THCS Hồng Thuỷ 12
- Kinh nghiệm dạy - học văn học nước ngoài
nhau, thậm trí trái ngược nhau trong cách cảm, cách nghĩ và cách diễn đạt bởi thế, để học sinh hiểu cảm
đúng tác phẩm, cần phải giúp học sinh rút ngắn khoảng cách này lại.
2c. Tìm hiểu mối quan hệ giữa văn bản ngôn từ và văn bản hình tượng.
Văn chương nước ngoài đến với giáo viên và học sinh đều qua lời dịch của các dịch giả. Văn bản
tác phẩm mà giáo viên và học sinh được dạy-học là văn bản dịch chứ không phải là nguyên tác. Như thế
người dịch đã phải thực thi một hoạt động rất phức tạp là:
- Chuyển dịch một tác phẩm từ một ngôn ngữ khác.
- Chuyển dịch một tác phẩm từ một thời gian này (thời gian lich sử xuật hiện nguyên bản) sang một
thời gian khác (thời gian lịch sử của bản dịch) và,
- Chuyển dịch một tác phẩm từ một không gian văn hoá này sang một không gian văn hoá khác.
Như vậy, dịch bản là văn bản hình tượng. Dạy học tác phẩm văn chương nước ngoài chủ yếu là dạy
học trên văn bản hình tượng gặp phải những bài thơ nước ngoài từ nguyên bản đến bản dịch nghĩa, sang
đến bản dịch thơ thì về mặt ngôn từ đã có sự khác nhau rất xa những bài thơ của Đỗ Phủ, Lý Bạch trong
thơ Đường đều nằm trong trường hợp đó. Thế là việc bám lấy ngôn từ để khai thác như với trường hợp
thơ nói chung là không thể được. Nhưng các đặc điểm khác của thi pháp bài thơ lại có thể giúp ta hiểu
cảm bài thơ thì lại phải khai thác. Tuỳ từng bài mà có cách vận dụng linh hoạt, sáng tạo để đạt hiệu quả
cao trong các tiết dạy và học tác phẩm. Đó là điều cần được quán triệt trong dạy học tác phẩm văn chương
nước ngoài. Ta có thể thấy, biện pháp so sánh, đối chiếu là biện pháp đặc trưng, đắc dụng trong quá trình
dạy học tác phẩm văn chương nước ngoài. Biện pháp đó được thực hiện trong việc đối chiếu bản dịch với
nguyên tác, so sánh các chi tiết, các hình ảnh cùng một phong cách, một giọng điệu để giúp học sinh hiểu
cảm tác phẩm sâu sắc hơn.
VD: Khi dạy văn bản "Tình dạ tứ"(Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh) của Lý Bạch, qua biện pháp đối
chiếu, so sánh bản dịch thơ với nguyên tác ta thấy:
Giáo viên : Dương Thị Tố Loan - Trường THCS Hồng Thuỷ 13
- Kinh nghiệm dạy - học văn học nước ngoài
Trong nguyên tác ta thấy nhà thơ viết là "minh nguyệt quang", bản dịch thơ dịch là "ánh trăng rọi",
dùng từ "rọi" (động từ), thay cho "sáng' (tính từ) đã làm nhạt mối liên tưởng trong bài thơ vì trăng phải
sáng nhà thơ mới nhầm là sương, hơn nữa, trăng rọi và sương phủ làm cho bài thơ tăng thêm hai chủ thể,
làm mờ đi cái chủ thể cô độc, nhớ quê. Trong nguyên tác chỉ có một chủ thể là Lý Bạch. Trong bản dịch
việc thêm hai chủ thể nữa đang hoạt động làm giảm đi cái thanh tĩnh, yên ắng của đêm khuya.
Do đó để học sinh cảm nhận được sâu sắc hơn hai câu thơ đầu:
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Dịch:
Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Giáo viên cần đặt câu hỏi có tính chất gợi mở để dẫn dắt học sinh khi tìm hiểu:
Bản dịch nghĩa theo nguyên tác là dịch "quang" là "sáng". Nhưng câu thơ dịch đổi thành "rọi".
Em thấy "sáng" và "rọi" cũng như "chiếu" khác nhau như thế nào?
Em có thích từ "rọi" trong bản dịch này không? tại sao?
Tại sao nhà thơ lại xúc cảm từ một ánh trăng đầu giường?
Trong hai câu, câu nào là miêu tả, câu nào là biểu cảm? Quan hệ giữa tả và cảm có hợp lý
không?
Với thể loại tác phẩm tự sự thì hình tượng nhân vật trong các bản dịch cần được tìm hiểu, khai thác
đúng mức. Nếu không sẽ khó lòng đạt được hiệu quả như mong muốn.
Chẳng hạn ,với "chiếc lá cuối cùng" của O.Henry trong ngữ văn 8. Hình tượng “chiếc lá cuối cùng”
không chỉ gợi lại ở đó mà còn gợi ta đến tấm lòng của người nghệ sĩ nghèo của nước Mĩ mà đặc biệt là
Giáo viên : Dương Thị Tố Loan - Trường THCS Hồng Thuỷ 14
- Kinh nghiệm dạy - học văn học nước ngoài
tấm lòng của bác Bơ- men đã tạo lên kiệt tác “chiếc lá cuối cùng”. Câu chuyện ngợi ca tình cảm trong
sáng, cao đẹp của những nghệ sĩ chân chính, ca ngợi sự hy sinh quên mình của cụ Bơ- men để vẽ chiếc lá,
cứu sống Giôn- xy.
Những chiếc lá trường xuân , theo qui luật sinh tồn của tạo hoá, từng chiếc lá một theo mùa đông rét
mướt qua đi. chiếc lá cuối cùng sót lại không phải bởi cây ấy là cây trường xuân, không phải bởi lá cây là
lá trường xuân mà bởi nét vẽ tài hoa của ông lão Bơ-men làm trường xuân lá ấy. Cây tuy là trường xuân
cũng không giữ được lá của mình. Người tuy hữu hạn nhưng lại giữ được lá.
Vậy ra điều duy nhất để giữ được lá kia lại trên dương thế này là tấm lòng. Tấm lòng đã thăng hoa
thành nghệ thuật. Và nghệ thuật đã mang thiên chức cứu người. Với O.Henry nghệ thuật phải phụng sự cái
đẹp, phải phụng sự cuộc sống. Mà cuộc sống, tồn tại trong ý nghĩ cao đẹp nhất, là phải biết hi sinh. Có thể
nói, nhân loại tồn tại trong ý thức cao đẹp nhất, là phải biết hi sinh.Và có thể nói, nhân loại tồn tại và phát
triển là nhờ sự hi sinh kế tục của các thế hệ tiếp nối. Xét ở góc độ này, O.Henry đặt vấn đề về ý nghĩa tồn
tại và khả năng duy trì sự sống của con người.
Cuộc sống là đáng quí, nhưng theo Bơ-men, nếu cần, lão sẵn sàng hi sinh tính mạng của mình vì
những điều cao quí hơn. đến đây ta thấy rõ hơn dụng ý nghệ thuật tạo độ căng của O.Henry: sử dụng thủ
pháp tăng cấp nhưng khi truyện phát triển lên đến đỉnh điểm thì khéo léo đan cài tư tưởng, chủ đề khác
vào, đây mới là chủ đề chính của tác phẩm. Vậy ra, cả hai cô gái, bác sĩ, bức tường gạch, dây trường xuân
kia và cả cách tự sự duyên dáng từ đầu tác phẩm đến đây tất cả đều là nền để ông lão Bơ-men xuất hiện.
Với kĩ thuật tự sự này, tác giả tạo dựng được độ hẫng thẩm mĩ trong tâm lí tiếp nhận. Đây là nét độc đáo
của "Chiếc là cuối cùng" bởi độ hẫng thẩm mĩ thì dễ được thực hiện ở thi ca chứ văn xuôi thì quả là rất
khó. Vậy nên ta có thể ví "Chiếc lá cuối cùng" như một bài thơ- tranh đặc biệt.
Giáo viên : Dương Thị Tố Loan - Trường THCS Hồng Thuỷ 15
- Kinh nghiệm dạy - học văn học nước ngoài
Xét ở góc độ khác, "Chiếc lá cuối cùng" được xem như là một truyện ngắn có kết cấu mẫu mực vào
hạng bậc nhất. Cốt truyện, nhân vật, giọng điệu, trần thuật, đối thoại. Đều có thể được xem như là một
trong những khuôn mẫu của thể loại này ở thế kỉ XIX
2d. Tìm hiểu những dấu hiệu thi pháp của tác phẩm theo đặc trưng loại thể.
Mỗi tác phẩm văn học xuất hiện bên cạnh động lực lớn, cảm hứng chủ quan của nhà văn còn bị chi
phối trực tiếp bởi trào lưu văn hoá trong khu vực ảnh hưởng cụ thể đến dân tộc. Vì vậy, chúng ta đặt yêu
cầu này ra là để tìm kiếm những điều kiện lý tưởng khi dạy và học cũng như nghiên cứu tác phẩm.
Ví dụ: Với thơ Đường thì dù bút pháp hiện thực như Đỗ Phủ, lãng mạn như Lý Bạch đều bị chi
phối bởi triết học Đạo giáo và Phật giáo không đơn thuần chỉ là Nho giáo. Màu sắc của Đạo giáo trong thơ
Lý Bạch rất rõ, ở Vương Duy chất phật rõ hơn còn Đỗ Phủ thì chất nhân văn từ hiện theo đời sống là chủ
đề chính.
Ta thấy thơ đường có màu sắc rất riêng, có lẽ khó gặp ở một trào lưu văn học Phương tây nào có
một loại thơ như thế. Cái tôi với tính chất “phi cá thể”, ước lệ trong thơ đường khá phổ biến. Tuy vậy, ta
vẫn không loại trừ những ngoại lệ. Dù như vậy ta cũng vẫn phải gọi ra mấy nét có tính chất thi pháp của
Đường thi:
- Đề tài thường trang trọng, thi ý thường nhiều tầng nghĩa gợi một màu sắc trí tuệ.
- Ngôn ngữ Đường thi thường mang tính khái quát cao chứ rất ít đi vào miêu tả chi tiết.
- Trong quá trình thể hiện, thơ Đường thường thể hiện những nguyên tắc rất chặt chẽ tạo sự hài hoà kì
thú. Mặt khác, nó lại sử dụng vần (nhất, tam, ngũ bất luận; nhị, tứ, lục phân minh), trên cơ sở những tiểu
đối: Đối thanh, đối ý.
- Thể cách luật trong thơ Đường là qui tắc kết hợp luật bằng trắc để tạo ra một sự hài âm, “niêm” là sự
kết dính hàng dọc tạo được sư êm ái, chất trí tuệ và “nỗi buồn thiên cổ” trong thơ Đường.
Giáo viên : Dương Thị Tố Loan - Trường THCS Hồng Thuỷ 16
- Kinh nghiệm dạy - học văn học nước ngoài
Vì vậy, khi dạy và học thơ Đường nếu chúng ta đặt được tác phẩm vào những nét tiêu biểu của thi
pháp thơ Đường thì rất có thuận lợi khi khai thác giúp học sinh tiếp nhận, cảm và hiểu nó một cách sâu
sắc hơn.
Một trong những vấn đề đáng quan tâm nhất của dạy và học phát triển hiện nay là đi “từ khái quát đến
cụ thể”. Trước đến nay dạy và học thơ Đường chúng ta thường chủ yếu khám phá cấu trúc: đề, thực, luận,
kết (đối với thể thất ngôn bát cú) hoặc: khai, thừa, chuyển, hợp (đối với thể thất ngôn tứ tuyệt). Nhưng
trên thực tế của khối lượng đồ sộ những bài thơ đường, nó thể hiện cả một trào lưu thơ ca độc đáo: ý tứ, đề
tài của trào lưu này thể hiện cả một ý chí sáng tạo. Thi ý thường nhiều tầng nghĩa. Luật bằng trắc: 1-8, 2-
3, 4-5, 6-7. Sự đối ngẫu thường diễn ra ở các câu 3-4, 5-6 ngoài đối thanh “bằng”, “trắc”, còn có tới 24
loại đối thuận, nghịch, tương thành, tương phản… mà người giáo viên dạy văn cần quan tâm khai thác
trong dạy và học, giúp học sinh hiểu đến cạn kiệt những tầng ý nghĩa trong thi tứ và thi ý của từng câu thơ
Đường theo đặc trưng thi pháp, thể loại.
3, Kết quả đạt đươc:
Sau khi vận dụng những kinh nghiệm này vào thực tế giảng dạy, tôi đã mạnh dạn thực nghiệm đối
với khối 6 (ở lớp 6B và 6C), khối 8 (lớp 8A và 8B), còn ở khối 7 và khội 9 tôi chưa có điều kiện áp dụng.
Để biết được kết quả của việc vận dụng “kinh nghiệm trong dạy-học các thể loại văn học nước ngoài”. Tôi
đã tiến hành khảo sát ở các tiết văn học của khối 6, khối 8 . Cách khảo sát được tiến hành như ở phần:
Điều tra thưc trạng trước khi nghiên cứu.
Kết quả khảo sát như sau:
Khối Lớp Sĩ số Giỏi Khá TB Yếu
SL (%) SL (%) SL (%) SL (%)
Giáo viên : Dương Thị Tố Loan - Trường THCS Hồng Thuỷ 17
- Kinh nghiệm dạy - học văn học nước ngoài
6B 36 2 5.5 19 52.8 13 36.1 02 5.5
7 6D 35 3 8.6 17 48.6 13 37.1 02 5.7
8A 34 02 5.9 19 55.9 12 35.3 01 2.9
8 8B 38 02 5,3 18 47.4 16 42.1 02 5.3
Với kết quả khảo sát như trên, tôi nhận thấy rằng những biện pháp và hình thức dạy-học các tác
phẩm văn học nước ngoài đã góp phần phục vụ hữu ích và góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng của
các giờ dạy-học tác phẩm văn học nước ngoài.
Phần lớn học sinh nắm chắc và nắm sâu kiến thức bài hoc, hiểu và cảm thụ sâu sắc những giá trị
đặc sắc về nghệ thuật, nội dung của các tác phẩm văn, thơ nước ngoài.
Có kỹ năng tìm hiểu, khám phá, phân tích những tác phẩm văn chương nước ngoài theo đặc trưng,
thể loại.
III, Bài học kinh nghiệm.
Qua thời gian nghiên cứu cùng các đồng nghiệp của mình áp dụng đề tài này vào giảng dạy phần
văn học nước ngoài trong chương trình ngữ văn 7 và 8, tôi thấy đây là những kinh nghiệm tốt để giúp
người giáo viên dạy văn khi đứng trước những tác phẩm văn học nước ngoài có thể tự tin và chủ động
trong khai thác, phân tích và tiếp cận các tác phẩm văn chương đó để ngày càng nâng cao chất lượng, hiệu
quả của các tiết dạy-học văn. Để có được kết quả cao khi thực hiện đề tài này, bản thân tôi rút ra một số
kinh nghiệm sau:
+ Với giáo viên:
Giáo viên : Dương Thị Tố Loan - Trường THCS Hồng Thuỷ 18
- Kinh nghiệm dạy - học văn học nước ngoài
- Giáo viên phải thực sự là người yêu nghề, yêu văn chương, có kiến thức sâu sắc về lịch sử, văn hoá,
phong tục tập quán, quan niệm thẩm mỹ của các dân tộc đã sản sinh ra những tác phẩm mà mình sẽ trực
tiếp giảng dạy.
- Có ý thức tìm đọc và hiểu đúng, hiểu trọn vẹn các tác phẩm văn chương nước ngoài phải dạy.
- Nắm chắc hệ thống phương pháp dạy-học tác phẩm văn chương theo loại thể, đặc biệt là các tác
phẩm văn chương nước ngoài.
+ Với học sinh:
- Các em phải là những bạn đọc thưc sự say mê, yêu thích văn học đặc biệt là các tác phẩm văn chương
nước ngoài.
- Mỗi học sinh luôn có ý thức đọc trước tác phẩm, tự tìm hiểu hệ thống câu hỏi qua phần đọc hiểu văn
bản.
- Mỗi học sinh luôn có ý thức tự rèn luyện các kỹ năng phân tích, tìm hiểu các yếu tố ngôn ngữ, nhân
vật trong các tác phẩm văn chương nước ngoài.
Vận dụng tốt những kinh nghiệm trên, theo tôi kết quả các giờ học văn phần văn học nước ngoài mới
có kết quả cao. Đồng thời khắc phục được tình trạng lười học, chán học và ngại học bộ môn do quan niệm
phần văn học này là khó của học sinh.
IV. Những vấn đề kiến nghị.
Hiện nay chất lượng dạy và học văn đang thu hút sư chú ý quan tâm của dư luận xã hội và các bậc
phụ huynh học sinh. Trong chương trình văn học được giảng dạy ở tất cả các trường THCS, phần văn học
nước ngoài chiếm một khối lượng không nhỏ bao gồm các tác giả tác phẩm của nhiều nền văn học khác
nhau trên thế giới. Việc giảng dạy phần văn học nước ngoài thường gặp khó khăn về nguồn tư liệu, về
cách tiếp nhận và việc khai thác tìm hiểu các giá trị thẩm mĩ của các tác phẩm văn học. Vì vậy để nâng
Giáo viên : Dương Thị Tố Loan - Trường THCS Hồng Thuỷ 19
- Kinh nghiệm dạy - học văn học nước ngoài
cao chất lượng các giờ dạy và học văn, đặc biệt là phần văn học nước ngoài. Tôi mạnh dạn nêu một số
kiến nghị sau:
+Tăng cường bồi dưỡng kiến thức lịch sử văn hoá, văn học, ngoại ngữ cho giáo viên dạy văn.
+ Khẩn trương bổ sung nguồn tư liệu mới có liên quan đến tác phẩm (cho đến nay rất ít thầy cô được
đọc tác phẩm trọn vẹn, nhưng đã dạy đoạn trích mấy năm nay).
+ Nên giới thiêu các tác phẩm trọn vẹn để minh hoạ bằng đoạn trích chứ không nên trích giảng. Từ đó
tiến tới phân tích minh hoạ tiêu biểu.
+ Với các giáo viên đứng lớp cần tạo cho việc chiếm lĩnh thơ, văn nước ngoài bằng những biện pháp
khác nhau với từng loại cụ thể của từng tác giả khác nhau, tránh sự áp đặt
Phần III
KẾT LUẬN
Tác phẩm văn chương nước ngoài là tiếng nói tâm tình, là cuộc đời của những con người sống rất
xa ta về không gian và thời gian nhưng lai có cùng một nhịp đập trái tim với chúng ta. Ta phải vận dụng
cả những tình cảm và hiểu biết nhiều khi tưởng như không dính dáng đến tác phẩm một cách linh hoạt,
sáng tạo để đưa các em đến những bến bờ xa lạ của thế giới văn học nhân loại, để nâng cao tầm nhìn, tầm
suy nghĩ của các em. Có như thế, việc dạy học tác phẩm văn chương nước ngoài mới có hiệu quả và góp
phần nâng cao chất lượng bộ môn.
Để dạy - học tốt phần văn học này, giáo viên cần phải có một vốn hiểu biết rộng rãi, vốn sống, vốn
ngoại ngữ, sự am hiểu các nền văn minh, văn hoá thế giới và đặc biệt là tấm lòng say mê văn chương để
có thể khám phá những tinh hoa văn hoá thế giới.
Giáo viên : Dương Thị Tố Loan - Trường THCS Hồng Thuỷ 20
- Kinh nghiệm dạy - học văn học nước ngoài
Mục lục
Phần I:
Giáo viên : Dương Thị Tố Loan - Trường THCS Hồng Thuỷ 21
- Kinh nghiệm dạy - học văn học nước ngoài
Đặt vấn đề
phần II:
Giải quyết vấn đề
I. Điều tra thực trạng trước khi nghiên cứu.
1. Hình thức và nội dung khảo sát .
2. kết quả khảo sát.
II. Những công việc thức tế đã làm và kết quả đạt được.
1. Những nguyên tắc chung.
2. Những công việc thực tế đã làm.
3. Kết quả đạt được.
III. Bài học kinh nghiệm.
IV. Những vấn đề kiến nghị.
Phần III
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Giáo viên : Dương Thị Tố Loan - Trường THCS Hồng Thuỷ 22