Nâng cấp TK VIP tải tài liệu không giới hạn và tắt QC

Tài liệu thi Lịch sử Đảng - Trung cấp lý luận chính trị

Nội dung tài liệu trình bày 6 câu hỏi về Lịch sử Đảng và đưa ra đáp án cụ thể giúp các bạn ôn tập, củng cố kiến thức để làm bài thi thật tốt. Mời các bạn tham khảo!

23-12-2018 964 46
QUẢNG CÁO

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. Câu 1:  Phân tich nh ́ ưng nguyên lý v ̃ ề  đang ki ̉ ểu mơi cua giai câp ́ ̉ ́  công nhân do Lê Nin sang lâp? Liên h ́ ̣ ệ Cuối thế  kỷ  XIX, đầu thế  kỷ  XX, những người lãnh đạo Quốc tế  thứ  hai Becxtanh và Cauxky đã phản bội giai cấp công nhân theo đuôi giai cấp tư  sản, đã biến nhiều đảng lớn của Quốc tế hai ở Tây Âu thành đảng cải lương,   phụ thuộc vào giai cấp tư sản. Các đảng ấy không đủ uy tín và năng lực lãnh  đạo cách mạng vô sản giành thắng lợi. Lenin dự báo cách mạng vô sản sắp  nổ ra, nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng vô sản giành chính quyền ngày càng đến  gần đòi hỏi phải xây dựng đảng khác hẳn về chất với các đảng Quốc tế  hai  khi đó. Lê Nin đã kế  thừa, phát triển những tư tưởng của chủ nghĩa C. Mác,  Ph. Ăngghen về Đảng Cộng sản đưa ra 8 nguyên lí về đảng kiểu mới của giai   cấp công nhân. Đó là: Thứ nhất: CN Mác là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt   động của ĐCS. Theo Lênin: “Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó là một   học thuyết chính xác, hoàn bị và chặt chẽ; nó cung cấp cho người ta một thế  giới quan hoàn chỉnh, không thỏa hiệp với bất cứ 1 sự mê tín nào, 1 thế  lực  phản động nào, 1 hành vi nào bảo vệ sự áp bức của tư sản. Nó là người thừa  kế chính đáng của tất cả những cái tốt đẹp nhất mà loài người tạo ra thế kỷ  XIX, đó là triết học Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội Pháp”.  Học thuyết đó là lý luận có vai trò đặc biệt quan trọng đối với phong trào   công nhân và hoạt động của Đảng.  Đối với Đảng Cộng sản, Lênin khẳng định: “Trước hết và trên hết phải   xem xét lý luận là kim chỉ nam cho hành động”. Người nhấn mạnh, chúng ta   hoàn toàn đứng trên cơ sở  lý luận của Mác: lý luận đó là lý luận đầu tiên đã   biến CNXH từ không tưởng trở  thành khoa học. Lý luận đó đã chỉ  rõ nhiệm   vụ  thật sự  của 1 đảng XH chủ  nghĩa cách mạng, nhiệm vụ  đó là: Tổ  chức  cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản và lãnh đạo cuộc đấu tranh đó mà   mục tiêu cuối cùng là giai cấp vô sản giành lấy chính quyền và tổ  chức XH   XHCN. Lênin còn lưu ý các Đảng Cộng sản phải phát triển lý luận của Mác   và vận dụng lý luận ấy phù hợp với diều kiện cụ thể của mỗi nước. Thứ  hai: ĐCS phải là đội tiên phong chính trị  có tổ  chức và là đội  ngũ có tổ  chức chặt chẽ  nhất, cách mạng nhất và giác ngộ  nhất của   GCCN.  Đảng đó phải là Đảng tập hợp những người tiên tiến, ưu tú của GCCN,   phải thể hiện sự tiên phong về  hành động và tiên phong về  lý luận. Đảng là  tổ  chức được tổ  chức chặt chẽ, có kỷ  luật sắt, tự  giác nghiêm minh thống  nhất ý chí và hành động, được vũ trang bằng lý luận cách mạng thì mới có  thể thực hiện được lý tưởng công sản. Khi có chính quyền, Đảng là hạt nhân  lãnh đạo hệ  thống chuyên chính vô sản và là một bộ  phận của hệ  thống đó. 
  2. Đó là điều kiện tiên quyết bảo đảm sự  thành công của công cuộc xây dựng  chủ nghĩa xã hội Thứ  ba: tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản xây dựng tổ chức,  sinh hoạt và hoạt động của Đảng.  Đảng phải là một tổ  chức tự  nguyện của những người cùng chung lý  tưởng cộng sản. Để  thực hiện lý tưởng của mình, một mặt Đảng phải thực   hiện tốt dân chủ  để phát huy cao độ trí tuệ, tính sáng tạo của mọi đảng viên   trong hoạt động, đồng thời đảng phải hoạt động một cách tập trung thống   nhất.   Vì   thế,   đảng   phải   xây   dựng   tổ   chức,   sinh   hoạt   và   hoạt   động   theo   nguyên tắc tập trung dân chủ để thống nhất ý chí và hành động.  Nguyên tắc tập trung dân chủ vừa đảm bảo phát huy quyền dân chủ, tập  trung trí tuệ, sáng tạo của đảng viên vừa đảm bảo thống nhất ý chí và hành  động của Đảng. Đó là vấn đề thuộc bản chất của Đảng, phân biệt đảng kiểu   mới của giai cấp công nhân với đảng kiểu cũ­đảng cải lương. Xa rời nguyên   tắc này  Đảng sẻ  giảm  sức  mạnh và không tránh khỏi tan rã. Lênin viết:   “Chúng tôi luôn bảo vệ  dân chủ  trong nội bộ  đảng. Nhưng chúng tôi không  bao giờ  phản đối chế  độ  tập trung của đảng. Chúng tôi chủ  trương chế  độ  tập trung dân chủ”. Tập trung dân chủ  đối lập với tập trung quan liêu, gia  trưởng độc đoán và dân chủ hình thức, dân chủ không lãnh đạo. Thứ tư: đoàn kết thống nhất là sức mạnh vô địch của đảng, tự phê  bình và phê bình là quy luật phát triển của đảng. Lê Nin đã chỉ  rõ đoàn kết thống nhất là sức mạnh to lớn của đảng. Sự  đoàn kết đó phải được dựa trên Cương lĩnh chính trị  và Điều lệ  đảng.Đoàn   kết thống nhất trong đảng là cơ sở  và điều kiện để  đoàn kết GCCN. Còn tự  phê bình và phê bình là biện pháp căn bản để xây dựng, củng cố sự đoàn kết   thống nhất của đảng, là quy luật phát triển của đảng. Lê Nin viết “Nếu một  chính đảng nào không dám nói thật bệnh tật của mình ra, không dám chẩn   đoán bệnh một cách thẳng tay, và tìm phương cứu chữa bệnh đó, thì đảng đó   sẽ không xứng đáng được người ta tôn trọng”. Thứ   năm:   phải   gắn   bó   mật   thiết   với   nhân   dân,   đấu   tranh   kiên  quyết ngăn chặn và loại trừ bệnh quan liêu.  Cách   mạng   là   sự   nghiệp   của   quần   chúng.   Đảng   là   một   tổ   chức   tự  nguyện, đấu tranh vì sự  nghiệp giải phóng quần chúng khỏi ách áp bức bóc  lột. Quần chúng cần có Đảng với tư  cách là người lãnh đạo họ  trong cuộc  đấu tranh  ấy. Nếu không có sự đồng tình và ủng hộ  của quần chúng thì mọi   chủ trương, đường lối của Đảng không trở thành hiện thực. Gắn bó mật thiết với nhân dân thuộc về  bản chất của đảng. Lê Nin đã   cảnh báo: Quan liêu xa dân đảng không tránh khỏi tan rã, thậm chí mất chính   quyền. Quan liêu xa dân là một nguy cơ lớn của ĐCS cầm quyền.
  3. Khi đã có chính quyền, Đảng có nhiều điều kiện mới, công cụ  mới rất  thuận lợi cho việc tăng cường mối liên hệ  giữa Đảng và quần chúng; đồng  thời trong Đảng cũng dễ nảy sinh bệnh quan liêu, mệnh lệnh làm cho một bộ  phận cán bộ, Đảng viên thiếu rèn luyện có thể  rơi vào tình trạng thoái hóa,  biến chất, xa rời quần chúng. Lênin coi đó là một trong những nguy cơ  mà  Đảng cầm quyền cần chú ý đề phòng, khắc phục. Thứ sáu: Đảng phải kết nạp những người ưu tú của GCCN, NDLĐ  vào đảng, và kịp thời đưa những người không đủ  tiêu chuẩn đảng viên  ra ngoài đảng. Đảng là đội tiên phong của giai cấp. Đảng chỉ có thể làm tròn vai trò ấy  nếu  trong Đảng chỉ  bao gồm những chiến sỹ  tiên phong. Tích cực kết nạp  những đại biểu  ưu tú của giai cấp công nhân và nhân dân lao động vào Đảng  là biện pháp quan trọng  để  cải thiện thành phần, chất lượng của Đảng là  điều kiện vô cùng trọng yếu để  nâng cao uy tín và giữ vững vai trò lãnh đạo  của Đảng.  Theo LêNin để  đảng ngày càng phát triển làm tròn nhiệm vụ  của mình  thì một mặt đảng phải tích cực kết nạp những người  ưu tú vào đảng; mặt   khác đảng cũng không thể để ở trong đảng những người thoái hóa, biến chất  và những phần tử  cơ hội trong đảng. ĐCS là GCCN, song theo Lê Nin đảng  không chỉ kết nạp những người  ưu tú xuất thân từ GCCN vào đảng mà đảng  còn phải kết nạp những người  ưu tú xuất thân từ  các giai cấp, tầng lớp lao  động khác vào đảng và đặc biệt coi trọng việc giáo dục, rèn luyện họ  theo   lập trường quan điểm của GCCN. Thứ  bảy: khi đã có chính quyền, đảng là hạt nhân lãnh đạo chuyên  chính VS và là một bộ phận của hệ thống đó. Theo Lê Nin, đảng lãnh đạo CM giành được chính quyền về  tay GCCN  và NDLĐ đó mới chỉ  là thành công bước đầu. Nhiệm vụ  khó khăn và phức   tạp hơn nhiều là đảng phải lãnh đạo xây dựng thành công chế độ XH mới đó  là XH XHCN mà đỉnh cao là CNCS. Đảng là một bộ  phận của hệ  thống   chuyên chính VS nhưng theo Lê Nin đảng là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống  đó. Sự lãnh đạo của đảng là điều kiện tiên quyết bao đảm cho công cuộc xây  dựng CNXH thành công. Chính vì vậy không một lúc nào được phép buông  lỏng sự lãnh đạo của đảng đối với nhà nước. Thứ 8: tính quốc tế của ĐCS. Tính quốc tế của ĐCS bắt nguồn từ tính chất quốc tế của GCCN. Điều   này được bắt nguồn từ  sứ  mệnh lịch sử  thế  giới của GCCN. Theo Lê Nin,  tính quốc tế  của ĐCS không chỉ  thể  hiện trong lời nói mà còn trong hành  động. Tính chất quốc tế  của Đảng thể  hiện trước hết  ở  chỗ  Đảng được tổ  chức và hoạt động theo những nguyên lý của học thuyết Mác,  ở  đường lối 
  4. của đảng phải thể  hiện chủ nghĩa quốc tế  vô sản. Đảng luôn luôn quan tâm  giáo dục đội ngũ Đảng viên và nhân dân lao động chủ  nghĩa quốc tế  vô sản.  Trong thời đại ngày nay, chủ  nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với  chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. đồng thời Lê Nin cũng nhấn mạnh, đảng  phải tích cực chống lại những biểu hiện sôvanh nước lớn và chủ  nghĩa dân   tộc hẹp hòi. Kết luận: Vận dụng những nguyên tắc về Đảng kiểu mới của giai cấp công  nhân theo tư tưởng của Lê nin, các Đảng cộng sản trên thế giới đã được xây dựng  ngày càng lớn mạnh, đưa cách mạng VS và CMXHCN giành thắng lợi to lớn, đưa   CNXH từ  lý luận trở  thành hiện thực và đã từng trở  thành một hệ  thống hùng  mạnh. Học thuyết Mác ­ Lênin về ĐCS vẫn còn nguyên giá trị và có ý nghĩa to lớn,   tiếp tục là cơ sở lý luận cho sự phát triển của các Đảng CS trên thế giới trong thời  đại ngày nay. Liên hệ chi bộ: Chi bộ Cựu chiến binh  ­ Huyện đoàn là chi bộ  sinh hoạt ghép của 3 cơ  quan: Hội Cựu chiến binh huyện, Huyện đoàn và Liên đoàn Lao động huyện.   Chi bộ hiện có 10 Đảng viên trong đó 9 đảng viên chính thức, 1 đảng viên dự  bị. Trong những năm qua, chi bộ cơ bản đã thực hiện tốt các nguyên tắc về đảng  kiểu mới theo tư tưởng của Lênin, đạt nhiều kết quả tích cực: Chi bộ thường xuyên tổ  chức học tập, quán triệt chủ nghĩa Mác­Lênin, các  nghị quyết, chỉ thị của Đảng để  nâng cao nhận thức cho cán bộ đảng viên; quán  triệt và thực hiện tốt Điều lệ Đảng, quy định những điều đảng viên không được  làm Tập thể chi bộ luôn nêu cao tình thần đoàn kết, thống nhất trong mọi hoạt   động, đảng viên luôn nói và làm đúng tinh thần Nghị quyết. Đảng viên tích cực, đi   đầu, nêu gương tốt cho quần chúng để thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn   của đơn vị.  Căn cứ nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Chi bộ đã họp bàn, thống nhất xây dựng   các nghị quyết chuyên đề để lãnh đạo chính quyền thực hiện tốt nhiệm vụ. Việc   học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được triển khai đến tất cả  đảng viên; mỗi cá nhân, cơ quan đều có các hành động thiết thực thực hiện; Tất cả các nghị quyết, chương trình hành động của Chi bộ đều được Chi ủy   chuẩn bị một cách chu đáo, sau đó tổ chức sinh hoạt chi bộ để đảng viên thảo luận,   góp ý xây dựng và thống nhất hình thành nghị quyết, chương trình hành động của  Chi bộ. Hầu hết đảng viên đều tích cực tham gia bàn bạc, đóng góp ý kiến để xây   dựng nghị  quyết. Sau khi thống nhất trong sinh hoạt, giao cho Chi  ủy ban hành  thành nghị quyết và chỉ đạo thực hiện theo Nghị quyết; theo thời gian đã xác định  Chi bộ tổ chức họp kiểm điểm, đánh giá, rút kinh nghiệm và điều chỉnh cho phù   hợp với thực tiễn và đảm bảo Nghị quyết được thực hiện hiệu quả. Chi bộ quán 
  5. triệt và xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của Chi ủy, Chi bộ, người đứng đầu  Cấp ủy để đảm bảo thực hiện dân chủ một cách tập trung. Việc tự phê bình và phê bình đã được Chi bộ coi trọng, duy trì đều đặn,  thực hiện nghiêm túc và thu được kết quả quan trọng. Hàng năm, chi bộ đều  tiến hành các đợt phê bình và tự phê bình kết hợp với việc đánh giá, phân loại  đảng viên. Trong sinh hoạt Chi bộ thường xuyên tổ chức học tập, quán triệt chủ  nghĩa Mác – Lênin, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng để nâng cao nhận thức cho cán   bộ đảng viên; quán triệt và thực hiện tốt Điều lệ  Đảng và quy định những điều  đảng viên không được làm. Tập thể chi bộ luôn nêu cao tình thần đoàn kết, thống nhất trong mọi hoạt   động, đảng viên luôn nói và làm đúng tinh thần Nghị quyết. Đảng viên tích cực, đi   đầu, nêu gương tốt cho quần chúng để thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn   của đơn vị. Hạn chế, khuyết điểm:  Còn tình trạng đảng viên ít đọc và tìm hiểu Nghị quyết; chưa tích cực tham gia  bàn bạc, góp ý trong xây dựng Nghị quyết, chương trình hành động của Chi bộ,   ngại đấu tranh, chưa mạnh dạn phê bình và tự phê bình. Trong sinh hoạt chi bộ  có lúc còn nhầm lẫn giữa việc lãnh đạo thực hiện  nhiệm vụ của Chi bộ và việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của từng cơ quan. Trong hàng buổi sinh hoạt đều thực hiện kiểm điểm việc thực hiện Điều lệ  Đảng, quy định những điều đảng viên không được làm và việc Học tập và làm theo  tấm gương đạo đức Hồ  Chí Minh song có lúc còn hình thức, chưa cụ  thể. Còn   đảng viên chưa thực sự gương mẫu, đi đầu trong việc thực hiện nhiệm vụ, còn vi   phạm quy chế, quy định của đơn vị. Giải pháp: Từ những ưu điểm, hạn chế cũng như nguyên nhân nêu trên, trong thời gian   tới Chi bộ cần tiếp tục đẩy mạnh và cần tập trung vào các giải pháp sau: Đặc biệt chú trọng công tác giáo dục tư tưởng, tổ chức tốt việc học tập nghị  quyết, chỉ thị của Đảng. Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, phê bình và tự phê bình. Tiếp tục phát huy tính tiên phong, gương mẫu của đảng viên trong thực hiện  nhiệm vụ. Tiếp tục phát huy dân chủ  trong xây dựng nghị  quyết, chương trình hành   động, đưa việc tham gia đóng góp ý kiến của đảng viên vào quy chế sinh hoạt của   Chi bộ để đảm bảo đảng viên phải nghiên cứu, học tập và nêu ý kiến xây dựng   nghị quyết, chương trình hành động của chi bộ trong sinh hoạt chi bộ…  
  6. Câu 2  Tư  tưởng của Chủ  tịch Hồ  Chí Minh về  đảng cộng sản. Ý  nghĩa. Liên hệ công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng hiện nay? Chủ  tịch Hồ  Chí Minh đã cống hiến cả  cuộc đời cho sự  nghiệp cách   mạng giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH. Hơn một thế  kỷ  đã trôi qua  nhưng những giá trị  lý luận và thực tiễn về  con đường đấu tranh giải phóng  dân tộc và xây dựng CNXH  ở Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho đến  nay vẫn còn nguyên giá trị của nó. 1. Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi.  Chủ  tịch Hồ  Chí Minh luôn khẳng định “Cách mệnh trước hết phải có  Đảng cách mệnh, để trong thì vận động, tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc   với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh  mới thành công…” Đảng muốn vững, phải lấy chủ  nghĩa Mac –Lenin làm  cốt, đó là bàn chỉ nam cho hành động của Đảng.  Đảng là người đề  ra đường lối, chủ  trương cách mạng, là người tập   hợp, tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ quần chúng, đưa đường lối, chủ trương  vào quần chúng, tổ  chức quần chúng đấu tranh giải phóng dân tộc và xây  dựng xã hội mới. Nếu ko có Đảng lãnh đạo thì Cách mạng Việt Nam không  thể dành thắng lợi. 2. Sự  ra đời của ĐCSVN là kết quả  của sự  kết hợp của CN Mác   Lenin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước  Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời sau khi thực dân Pháp đã thiết lập  nền thống trị  của chúng trên đất nước ta và qua hai lần khai thác thuộc địa.  Phong trào công nhân mới bắt đầu hình thành và phát triển từ những năm 20  của thế  kỷ  trước. Khi đó, phong trào yêu nước vẫn là phong trào rộng lớn  nhất, lôi cuốn giai cấp nông dân chiếm tới 90% dân số  và các tần lớp khác   như tầng lớp tiểu tư sản, tư sản dân tộc, các nhân sĩ, trí thức yêu nước... Giai   cấp công nhân mặc dù là giai cấp tiên tiến, nhưng còn nhỏ bé, vào thời điểm  đó, phong trào công nhân mới chỉ là một bộ phận của phong trào yêu nước và  nằm trong phong trào yêu nước.  Chính vì lẽ đó, sự ra đời của ĐCSVN là kết quả của sự kết hợp của CN   Mác Lenin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đó là  sự phản ánh quy luật ra đời và là cội nguồn sức mạnh của ĐCSVN là sự vận  dụng sáng tạo CN Mác Lenin vào đặc điểm của nước Việt Nam – một nước   nửa thuộc địa nửa phong kiến. 3. Đảng CSVN là Đảng của giai cấp công nhân đồng thời là Đảng  của dân tộc Việt Nam Đảng là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiền   phong của nhân dân lao động và của cả  dân tộc Việt Nam; đại biểu trung  thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. 
  7. Mục đích của Đảng là xây dựng một nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu  mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không có người bóc lột người. Tính chất   giai cấp công nhân của Đảng được thể hiện cụ thể trên các lĩnh vực chính trị,   tư tưởng và tổ chức. 4. ĐCSVN phải được xây dựng theo các nguyên   lý đảng kiểu mới   của giai cấp công nhân Vận dụng các nguyên lý đảng kiểu mới của chủ  nghĩa mac – lenin về  ĐCSVN chủ tịch HCM đã khái quát  thành những nguyên lý chủ yếu như: tập  trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, kỷ  luật nghiêm túc và tự  giác, đoàn kết thống nhất trong đảng, đức và tài, quan  hệ  giữa đức và tài của cán bộ, liên hê mật thiết với nhân dân; sây dựng chi   bộ, đảng bộ cơ sở và đội ngũ đảng viên; lề  lối, phong cách làm việc… đồng  thời người cũng chỉ ra các nguyên lý đó đối với ĐCSVN 5. ĐCSVN vùa là người lãnh đạo vùa là người đầy tớ  trung thành  của nhân dân. Đảng lãnh đạo nhân dân làm chủ, Đảng liên hệ  mật thiết với nhân dân,   Đảng phải thường xuyên chăm lo đổi mới và chỉnh đốn đảng Đảng vừa là người nhân văn sâu sắc nhất là người phục vụ  đắc lực   nhất, vừa là người lạnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành. Muốn thực hiện  điều đó Đảng phải phát huy vai trò làm chủ  của nhân dân đó là sự  dống còn  sự phát triển của đảng 6. ĐCSVN phải thường xuyên chăm lo xây dựng và chỉnh đốn đảng Để  giữ  vững vị  trí và vai trò lãnh đạo cách mạng của mình, lãnh đạo   cách mạng giành thắng lợi, Đảng phải thường xuyên được xây dựng và chỉnh   đốn, phòng và chống nguy cơ thoái hóa, biến chất trong đội ngũ. Hồ Chí Minh  nhấn mạnh tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng trên những vấn đề sau đây: ­ Đảng phải luôn luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải  luôn luôn xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao   động và của dân tộc Việt Nam. ­ Đội ngũ đảng viên, cán bộ  của Đảng phải là những người toàn tâm,   toàn ý phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phải là những người vừa có đức   vừa có tài, luôn luôn giác ngộ  cách mạng, đi đầu trong mọi công tác, đặt  quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết và trước hết. phải có đạo đức   cách mạng, có lối sống lành mạnh. ­ Luôn luôn chú ý đề phòng và khắc phục những tiêu cực, thoái hóa, biến  chất, luôn luôn giữ gìn Đảng trong sạch, vững mạnh.
  8. ­ Đảng phải tự  vươn lên  đáp  ứng kịp thời yêu cầu của tình hình và  nhiệm vụ  mới. Muốn vậy, Đảng phải chú ý nâng cao tầm trí tuệ, tầm tư  tưởng, nâng cao trình độ về mọi mặt. Ý nghĩa: ­ Vận dụng sáng tạo học thuyết Mac –Lenin về đảng cộng sản phù hợp  với nước ta, Hồ Chí Minh đã xây dựng thành cộng một đảng kiểu mới ở Việt   Nam. Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam vững mạnh về chính trị, thể hiện  ở  việc xác định Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn của  Đảng; xây dựng Đảng vững mạnh về  tư  tưởng, luôn trung thành tuyệt đối  với chủ  nghĩa Mac – Lenin; về  giữ  vững và tăng cường bản chất giai cấp  công nhân của Đảng; đưa cách mạng nước ta đi từ  thắng lợi này đến thắng   lợi khác ­ Đảng Cộng sản Việt Nam là sự  kết hợp giữa chủ  nghĩa Mac –Lenin   với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, phù hợp với điều kiện hoàn   cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam, một nước thuộc địa nửa phong kiến.  Liên hệ công tác chỉnh đốn Đảng Lý do cần xây dựng và chỉnh đốn Đảng ­ Nước ta đi vào đổi mới, đi vào phát triển kinh tế  thị  trường, mở cửa,  hội nhập do đó tăng cường sự  lãnh đạo của Đảng là yếu tố  vô cùng quan   trọng; là nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi Cương lĩnh chính trị, mục tiêu,  nhiệm vụ  xây dựng chủ  nghĩa xã hội, bảo vệ  vững chắc thành quả  cách  mạng, nền độc lập tự chủ của Tổ quốc ta. Tuy nhiên một bộ phận nhỏ đảng  viên chưa nhận thức một cách sâu sắc vấn đề  này, chỉ  nặng về  công tác   chuyên môn, chưa quan tâm đầy đủ  đến công tác xây dựng Đảng; hoặc xem   nhẹ vai trò lãnh đạo của Đảng, coi nhẹ công tác Đảng.  ­ Do tính chất phức tạp của thời kỳ quá độ  và tác động tiêu cực của cơ  chế kinh tế thị trường. Vì vậy, việc khắc phục những dấu vết của xã hội cũ,  trong đó có đạo đức phong kiến, đạo đức tư  sản đòi hỏi phải có thời gian,   không thể chủ quan, nóng vội. Tính phức tạp này là một trong những nguyên  nhân khách quan dẫn đến tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức,  lối sống của một bộ phận không nhỏ  cán bộ  đảng viên, đoàn viên thanh niên  hiện nay. ­ Do sự tác động của đạo đức, lối sống, hưởng thụ tư sản du nhập vào  nước ta trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế  và công nghệ  thông  tin. Một bộ phận đảng viên có chức, có quyền, có điều kiện nắm giữ tài sản,   tiền bạc, tham nhũng, hối lộ, bòn rút của công, lãng phí, quan liêu, chạy chức,  chạy quyền, chạy chỉ tiêu, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng ­ Sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động phủ nhận thành tựu  của cách mạng; thổi phồng khuyết điểm, tồn tại của Đảng, bôi đen hiện 
  9. thực, gieo rắc hoài nghi, phá vỡ  niềm tin của nhân dân và cán bộ, quy kết là  do đường lối sai, sự lãnh đạo, quản lý yếu kém của Đảng và Nhà nước. Phủ  nhận chủ nghĩa Mác ­ Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ  định con đường xã  hội chủ  nghĩa, định hướng xã hội chủ  nghĩa; hạ  thấp vai trò lãnh đạo của   Đảng, phê phán, đổ lỗi cho Đảng, đòi đa nguyên, đa đảng. Kích động chia rẽ  nội bộ, tung ra những luận điệu bịa đặt, xuyên tạc lịch sử; vu cáo, bôi nhọ  một số đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước Chính vì vậy mà Đảng ta luôn luôn nhấn mạnh phải đặc biệt coi trọng   công tác xây dựng Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ có ý nghĩa  sống còn đối với Đảng ta, chế độ ta.  Giải pháp: Thứ  nhất, đẩy mạnh giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân kiên   định, giữ  vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, hệ  tư   tưởng của Đảng. Tăng cường công tác giáo dục về  mục tiêu, lý tưởng của Đảng, đưa hệ  tư tưởng của Đảng vào đời sống chính trị tinh thần của toàn Đảng, toàn dân.  Trên cơ sở nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ  nghĩa Mác ­  Lê­nin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải trung thành, vận  dụng sáng tạo lý luận của Đảng vào từng lĩnh vực của đời sống xã hội.   Tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng trên nền tảng sự giác ngộ chính trị  cao và những nguyên tắc của công tác xây dựng Đảng. Tổng kết thực tiễn, phát  triển lý luận và đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái, bảo vệ chủ nghĩa  Mác ­ Lê­nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ  nghĩa; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù chống phá sự nghiệp cách  mạng nước ta, phá hoại khối đoàn kết trong Đảng, trong toàn xã hội. Thứ hai, đẩy mạnh học tập, rèn luyện đạo đức, lối sống cách mạng cho   đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trước hết phải nâng cao kiến thức mọi mặt cho cán bộ, đảng viên, trong  đó tập trung bồi dưỡng lý luận chủ  nghĩa Mác ­ Lê­nin, tư  tưởng Hồ  Chí  Minh, năng lực tư duy, ho ạt động thực tiễn và chuyên môn nghiệp vụ, thực   hiện tốt tư  tưởng Hồ  Chí Minh về  nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch   chủ  nghĩa cá nhân. Khắc phục triệt để  tình trạng một bộ  phận cán bộ, đảng  viên giảm sút ý chí, phai nhạt lý tưởng, thoái hóa, biến chất về tư tưởng chính  trị, đạo đức, lối sống...xác định việc học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức,  lối sống là chế độ bắt buộc, là tiêu chuẩn để  phân loại, đánh giá chất lượng  tổ chức đảng và đảng viên. Thứ ba, củng cố tổ chức, chấp hành nghiêm các nguyên tắc, chế độ sinh   hoạt của Đảng. Đây là cơ sở để củng cố tổ chức, bảo đảm đoàn kết thống nhất, kỷ luật   trong Đảng. Vì vậy, phải quán triệt, chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung  dân chủ, nguyên tắc tổ  chức cơ  bản của Đảng, chế  độ  tự  phê bình và phê 
  10. bình trong toàn Đảng theo tinh thần Nghị  quyết Trung  ương 6 (lần 2), khóa  VIII; Nghị  quyết Đại hội Đảng lần IX, X, XI và Nghị  quyết Trung  ương 4,   khóa XI, để tiếp tục khơi dậy và phát huy tính tích cực, dân chủ, trách nhiệm   của đảng viên. Kiên quyết chống quan điểm, tư  tưởng phủ nhận, xuyên tạc,   bóp méo nguyên tắc, chế độ xây dựng Đảng, hòng làm cho Đảng suy yếu về  tổ chức, dẫn đến biến chất Đảng viên. Câu 3: Nguyên tắc tập trung dân chủ. Liên hệ chi bộ? Tập trung dân chủ  là nguyên tắc cơ  bản của đảng cộng sản, là nguyên   tắc để phân biệt chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân với các đảng  phái khác. Nguyên tắc tập trung dân chủ chỉ đạo mọi hoạt động xây dựng, tổ  chức, sinh hoạt và lãnh đạo của đảng, đồng thời chi phối các nguyên tắc tổ  chức, hoạt động khác của đảng cộng sản.Nguyên tắc tập trung dân chủ trong   đảng cộng sản có những nội dung chủ yếu sau: ­ Đảng viên bình đảng về quyền và nghĩa vụ ­ Công việc của đảng được thảo luận và quyết định theo đa số, ý kiến   thiểu số được quyền bảo lưu ­ Cơ quan lãnh đạo của đảng do bầu cử lập ra ­ Báo cáo và thông báo công việc của đảng ­ Đảng có một cơ quan lảnh đạo cao nhất ­ Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, đảng viên phải   chấp hành nghị quyết của đảng ­ Ký luật của đảng chặt chẽ, nghiêm minh. Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng Cộng sản   Việt Nam được quy định tại Điều 9 của Điều lệ Đảng: ­ Cơ  quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử  lập ra, thực hiện tập   thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. ­ Cơ  quan lảnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội Đại biểu toàn quốc,  cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa  2 kỳ  đại hội, cơ  quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung  ương,  ở  mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy) ­ Cấp  ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về  hoạt động của mình  trước đại họi cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới; định kì thông báo   hoạt động của mình đến các tổ  chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình  và phê bình. ­ Tổ  chức   đảng  và   đảng  viên  phải  chấp  hành  nghị   quyết  của  Đảng.   Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ  chức, các tổ  chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và  Ban Chấp hành Trung ương
  11. ­ Nghị  quyết của các cơ  quan lãnh đạo của Đảng chỉ  có giá trị  thi hành  khi có hơn một nữa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu  quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến  thuộc về  thiểu số  được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp  ủy cấp trên cho   đến  Đại   hội   đại  biểu  toàn quốc  song  phải  chấp hành  nghiêm  chỉnh nghị  quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp ủy có  thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng  viên có ý kiến thuộc về thiểu số ­ Tổ chức đảng quyết định những vấn đề thuộc phạm vi, quyền hạn của   mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng,  pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên. Liên hệ chi bộ Cựu chiến binh  ­ Huyện đoàn Chi bộ Cựu chiến binh  ­ Huyện đoàn là chi bộ  sinh hoạt ghép của 3 cơ  quan: Hội Cựu chiến binh huyện, Huyện đoàn và Liên đoàn Lao động huyện.   Chi bộ hiện có 10 Đảng viên trong đó 9 đảng viên chính thức, 1 đảng viên dự  bị. Trong những năm qua, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ  đã   được toàn thể đảng viên chấp hành tương đối nghiêm túc, đạt nhiều kết quả  tích cực: Mỗi kỳ sinh hoạt, chi bộ luôn tập trung thảo luận để  quán triệt sâu sắc  tinh thần chỉ đạo của đảng ủy cấp trên; nắm chắc tình hình hoạt động và đề  ra nghị quyết để  chỉ  đạo sâu sát các cơ  quan nhằm giải quyết tốt các nhiệm  vụ mà đảng ủy cấp trên giao. Bên cạnh đó, chi bộ thường xuyên chăm lo công   tác giáo dục cán bộ, đảng viên nhận thức một cách đầy đủ  từ  vai trò quan  trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ, những nội dung chủ yếu và bản chất  của nguyên tắc đến quy chế thực hiện nguyên tắc này. Chi bộ đã sâu sát từng  đảng viên, phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những nhận thức không đúng, tư  tưởng giản  đơn, thiếu trách nhiệm trong thực hiện;  đấu tranh khắc phục  bệnh quan liêu, độc đoán, dân chủ  hình thức cũng như mọi biểu hiện cục bộ  địa phương chủ  nghĩa, vô tổ  chức, vô kỷ  luật. Mặt khác, mọi cán bộ, đảng  viên dù ở cấp nào, chức vụ gì cũng đều phải tự giác đặt mình trong sự quản   lý của Chi bộ. Đồng thời, để  nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, các dự  thảo Nghị  quyết luôn được xây dựng bám sát nhiệm vụ  chính trị  của từng cơ  quan và  tạo mọi điều kiện cho đảng viên đóng góp xây dựng chủ  trương, biện pháp  lãnh đạo. Sau khi thống nhất, Nghị quyết được quán triệt và phân công nhiệm   vụ  cho đảng viên, phù hợp với chức trách, nhiệm vụ  của từng người. Đồng  thời, mỗi đảng viên phát huy cao độ  tinh thần trách nhiệm, tính tích cực, sự  sáng tạo, bảo đảm cho Nghị quyết được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả. Đối  với những vấn đề quan trọng cần bỏ phiếu kín, chi bộ chấp hành nghiêm quy  trình bỏ  phiếu, tổ chức kiểm phiếu chặt chẽ, công bố  kết quả theo quy định  và lập biên bản bảo lưu kết quả. Mọi đảng viên nghiêm chỉnh thực hiện Nghị 
  12. quyết đã ban hành, không   phát ngôn và có hành động trái với Nghị  quyết.   Việc xây dựng, ban hành các quy định cụ thể hoá nguyên tắc TTDC phải đảm  bảo yêu cầu tập thể  lãnh đạo, cá nhân phụ  trách và mở  rộng sinh hoạt dân  chủ. Trong Chi bộ, bí thư  và các đảng viên phải tự  giác chấp hành các quy  định đã đề ra. Song song với các biện pháp này, mọi hoạt động của chi bộ  đều được   công khai. Định kỳ, các cơ quan đưa nội dung kiểm điểm tình hình thực hiện  quy chế  tập trung dân chủ  vào trong nội dung sinh hoạt. Phát huy vai trò của  Bí thư chi bộ trong việc duy trì các nền nếp, chế độ, thủ tục, nguyên tắc của  Đảng. Ngoài việc tổ chức thực hiện các chế độ nề nếp, nguyên tắc sinh hoạt   đảng nghiêm túc, chi bộ  đã làm tốt công tác kiểm tra chấp hành đảng viên  hằng năm theo kế  hoạch của đảng  ủy cấp trên.Trong hoạt động kiểm tra  chấp hành chi bộ  đã thực hiện nghiêm túc, chất lượng, thể  hiện ý thức phê  bình và tự  phê bình cao của tất cả  các đảng viên trong chi bộ. Bên cạnh đó,   việc đóng góp cho đảng viên được kiểm tra thực sự thể hiện tinh thần trách   nhiệm cao, tình đồng chí chân thành, cầu thị. Nhờ  thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ  mà chi bộ  đạt trong  sạch, vững mạnh hàng năm; không có đảng viên vi phạm tư cách, không hoàn   thành nhiệm vụ. Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện nguyên tắc tập trung  dân chủ  của các đảng viên vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm cần được  khắc phục.Đó là:  Một bộ phận cán bộ, đảng viên còn nhận thức chưa đầy đủ yêu cầu, nội   dung nguyên tắc tập trung dân chủ và việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân   chủ.  Việc phát huy vai trò của tập thể cấp  ủy cũng như trách nhiệm cá nhân   của một số  cấp  ủy viên còn chưa đầy đủ. Một số  đảng viên còn ngại phát  biểu, ý kiến chung chung, xuôi chiều, cho nên, khi gặp phải những vấn đề  cần làm rõ đúng sai còn né tránh, đổ lỗi cho khách quan, quy khuyết điểm cho   tập thể. Việc phân công trách nhiệm cá nhân phụ trách chưa thật rõ ràng, cụ thể,  còn biểu hiện chung chung.  Từ những kết quả và hạn chế trong việc thực hiện nguyên tắc tập trung   dân chủ   ở  Chi bộ  Cựu chiến binh  ­ Huyện đoàn, có thể  rút ra một số  kinh  nghiệm thực tiễn: Thứ  nhất, không ngừng nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về   bản chất, nội dung, yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhận thức  đúng đắn bản chất, yêu cầu, nắm chắc nội dung nguyên tắc tập trung dân  chủ  trong Điều lệ  Đảng, coi đó là nền tảng, cơ  sở  khoa học cho mỗi đảng 
  13. viên trong sinh hoạt, hoạt động và bảo vệ  Đảng, phòng, chống có hiệu quả  những biểu hiện xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ.  Thứ hai, cụ  thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ  bằng những văn bản   hướng dẫn cụ thể, để mọi đảng viên thực hiện . Rà soát lại các quy định, quy  chế, tìm ra những điểm bất hợp lý, không còn phù hợp trong thực hiện nguyên   tắc để bổ sung, hoàn thiện, giúp cho việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân  chủ được thống nhất, đồng bộ, chặt chẽ, khắc phục những bất cập, hạn chế  trong nhận thức và hoạt động.  Thứ ba, thực hiện tốt tự phê bình và phê bình; nâng cao chất lượng sinh   hoạt chi bộ, coi trọng việc quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên . Thực hiện  nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ đạt kết quả cao khi nó gắn với nguyên tắc tự  phê bình và phê bình. Hai nguyên tắc này phải cùng được tiến hành mọi nơi,   mọi lúc trong toàn chi bộ. Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, thực hiện tốt  tự  phê bình và phê bình là tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho phòng,  chống tình trạng xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ.  Thứ tư, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát quá   trình thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong chi bộ. Mục đích kiểm tra  không chỉ  để  phát hiện những vi phạm và sai lầm, mà quan trọng hơn là  phòng ngừa, uốn nắn những lệch lạc, chấn chỉnh những biểu hiện sai trái,  giúp thực hiện và phát huy tốt hơn tác dụng của nguyên tắc tập trung dân chủ.   Kiểm tra đảng viên khi dấu hiệu vi phạm nguyên tắc mới manh nha, để giáo  dục, ngăn chặn. Coi trọng việc xem xét, xử  lý kỷ  luật nghiêm minh và kịp   thời với những cán bộ, đảng viên cố tình không chấp hành chỉ thị, nghị quyết,   tham nhũng, vi phạm, xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ, gây chia rẽ, bè  phái, làm suy yếu khối đoàn kết, thống nhất trong chi bộ. Thứ năm, đề cao vai trò của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt trong giữ   vững và phòng, chống tình trạng xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ. Cán bộ  chủ  chốt phải gương mẫu thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể  lãnh đạo, cá nhân phụ  trách, tự  phê bình và phê bình. Đề  cao trách nhiệm và  quyền hạn của người  đứng đầu, cán bộ  chủ  chốt; khuyến khích, bảo vệ  người dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đặt lợi ích chung lên trên lợi   ích riêng.  Hiện nay, toàn Đảng đang triển khai thực hiện kiểm điểm theo tinh thần  nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng với quyết   tâm chính trị  rất cao. Bởi vậy, việc thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung   dân chủ và phòng, chống có hiệu quả những biểu hiện xa rời nguyên tắc này  sẽ góp phần quan trọng đảm bảo cho Nghị quyết đi vào cuộc sống, thiết thực   xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, ngang   tầm nhiệm vụ lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
  14. Câu 4:  Nội dung Cương lĩnh Chính trị  đầu tiên của Đảng, sự  vận  dụng của Đảng ta trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Đầu năm  1929, Việt  Nam lần lượt xuất hiện ba t ổ  ch ức  c ộng s ản:   Đông Dương Cộng sản Đảng (17/6/1929)  ở  Bắc kỳ, Đông Dương Cộng sản  Liên đoàn (1/1/1930) ở Trung kỳ và An Nam Cộng sản Đảng (11/1929) ở Nam   Kỳ.Tuy nhiên,  các  tổ  chức  hoạt  động riêng  rẽ,  tranh  giành  ảnh  hưởng  lẫn  nhau gây bất lợi cho phong trào cách mạng. Từ  ngày 6/1 đến ngày 8/2/1930,  Nguyễn Ái Quốc triệu tập Hội Nghị  hợp nhất các tổ  chức cộng sản  ở  Cửu   Long (Hương Cảng – Trung Quốc). Hội nghị đã nhất trí hợp nhất các tổ chức  cộng sản thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; Hội   nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm  tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các văn kiện này hợp  thành Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam  1. Nội dung của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng:  ­ Về con đường cách mạng Việt Nam: Trên cơ sở phân tích, đánh giá  khái quát đặc điểm cơ  bản nhất của Việt Nam dưới chế  độ  thuộc địa nửa  phong kiến, phân tích thực trạng và những mâu thuẫn trong lòng xã hội Việt   Nam – xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Cương lĩnh xác định đường lối chiến  lược của cách mạng Việt Nam là  "chủ  trương làm tư  sản dân quyền cách   mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".  ­ Về nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể của cách mạng: + Về chính trị: Đánh  đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho  nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ công nông binh và tổ  chức quân đội công nông.Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ  chặt chẽ  với nhau,   phải được tiến hành khăng khít không tách rời nhau nhưng trong đó nhiệm vụ  chống đế quốc, giành độc lập cho dân tộc được đặt lên hàng đầu. + Về kinh tế: Tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho   Chính phủ công nông binh; tịch thu ruộng đất của bọn đế  quốc làm của công và  chia cho dân cày nghèo. + Về văn hóa xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền,  phổ thông giáo dục theo hướng công nông hoá.   ­ Xác định lực lượng cách mạng: là đoàn kết công nhân, nông dân, đây  là lực lương cơ bản của cách mạng, trong đó giai cấp công nhân là lực lượng  lãnh đạo. Đồng thời chủ  trương đoàn kết tất cả  các giai cấp, các lực lượng   tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai: “Đảng phải hết sức   liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông,...để kéo họ đi vào phe vô sản giai  cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư  bản An Nam mà  chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ  đứng  trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ”.
  15. ­ Về phương pháp tiến hành cách mạng: Cương lĩnh khẳng định phải  bằng con đường bạo lực cách mạng (bạo lực chính trị  và bạo lực vũ trang)   chứ không thể là con đường cải lương thoả hiệp "không khi nào nhượng một  chút lợi ích gì của công nông mà đi vào con đường thoả  hiệp". Có sách lược  đấu tranh cách mạng thích hợp để lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông về  phía giai cấp vô sản, còn “bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (đảng lập  hiến) thì phải đánh đổ". ­ Về vai trò lãnh đạo của đảng:Cương lĩnh xác định: giai cấp vô sản là  lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng CSVN là đội tiên phong của   giai cấp vô sản: "Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục  đại bộ  phận của giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được  dân chúng". "Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số  lớn  của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ khả năng lãnh đạo quần chúng".  ­ Về  đoàn kết quốc tế:  Cương lĩnh nêu rõ cách mạng Việt Nam liên  lạc mật thiết và là một bộ  phận của cách mạng vô sản thế  giới, "trong khi   tuyên truyền các khẩu hiệu nước An Nam  độc lập, phải đồng thời tuyên  truyền và tiến hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới".  2. Sự vận dụng của Đảng ta trong tiến trình cách mạng Việt Nam: Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn vận đúng  đắn, sáng tạo các nội dung của cương lĩnh chính trị  đầu tiên của Đảng, đưa   cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác: ­ Về con đường cách mạng: Từ 1930 đến nay con đường, mục tiêu của  cách mạng Việt Nam không hề thay đổi. Đảng ta vẫn khẳng định Độc lập dân  tộc gắn liền với CNXH là con đường duy nhất đúng đắn mà Đảng, Bác Hồ  và  nhân dân ta lựa chọn. Sau kháng chiến chống Pháp thành công 1954, Miền Bắc cơ  bản hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ  nghĩa, đóng vai trò là căn cứ  địa, hậu phương lớn cho cách mạng miền Nam và  chuẩn bị những điều kiện vật chất, tinh thần cho cả nước tiến lên xây dựng chủ  nghĩa xã hội sau này. Năm 1975 miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống   nhất, Đảng lãnh đạo cả đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngày nay,   dưới sự  lãnh đạo của Đảng, dân tộc Việt Nam vẫn đang vững bước trên con   đường đổi mới, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. ­ Về nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng: Việc xác định nhiệm vụ và  mục tiêu của cách mạng Việt Nam được thay đổi cho phù hợp với từng thời kỳ,   từng giai đoạn lịch sử: + Trong thời kỳ 1930 – 1931, dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế  thế  giới giới 1929 – 1933 và chính sách “khủng bố  trắng” của thực dân Pháp  sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa mới  ra đời đã kịp thời đề  ra chủ  trương phát động quần chúng đấu tranh đòi các  quyền tự do, dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, chống khủng bố, đòi trả 
  16. tự  do cho những người yêu nước bị  bắt… Chủ trương đúng đắn đó đã tạo ra  một phong trào đấu tranh cách mạng sôi nổi, trở  thành cuộc diễn tập thứ  nhất   chuẩn bị cho cách mạng Tháng Tám sau này.   + Trong thời kỳ  những năm 1936 – 1939, trước bối cảnh mới của lịch sử  Đảng ta xác định: Kẻ thù chính của nhân dân Đông dương lúc này không phải bọn  thực dân Pháp nói chung, mà là bọn phản động thuộc địa Pháp, tay sai của bọn   phản động ở chính quốc; cũng không phải là giai cấp tư sản và địa chủ nói chung,   mà là một bộ phận tư sản mại bản, đại địa chủ tay sai đắc lực của bọn phản động  thuộc địa. Do đó Đảng đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ đấu tranh trước mắt là đấu  tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chống chiến tranh đế  quốc, đòi dân sinh, dân chủ và hòa bình. Chủ  trương đúng đắn đó đã tạo ra một  phong trào đấu tranh cách mạng sôi nổi, mang nhiều giá trị to lớn, trở thành cuộc   diễn tập thứ hai trước khi cách mạng Tháng Tám nổ ra và giành thắng lợi.   + Trong thời kỳ 1939 – 1945, Đảng ta xác định mục tiêu của cách mạng là   đánh đổ đế quốc và tay sai, đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên   hàng đầu. Sau khi Nhật đảo chínhhất cẳng pháp ra khỏi Đông Dương (9/3/1945) thì  nhiệm vụ của cách mạng Việt nam là kháng Nhật cứu nước và chớp thời cơ tiến   hành Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi trong cả nước.  + Sau khi Cách mạng tháng 8/1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng   hòa ra đời, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, Đảng khẳng định: Nhiệm   vụ của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược và đánh đổ các  thế lực phong kiến tay sai, giành độc lập cho dân tộc, giành ruộng đất cho nông   dân, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để tiến lên làm cách mạng   XHCN.  + Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, đất nước tạm thời chia làm hai miền với  hai chế độ chính trị khác nhau, Đảng ta chủ trương tiến hành đồng thời hai nhiệm   vụ cách mạng: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và tiếp tục Cách mạng  dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam; Cách mạng hai miền có mối quan hệ  mật thiết, gắn bó với nhau nhằm hoàn thành Cách mạng dân tộc dân chủ   nhân dân trong cả nước, thực hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc. + Từ  năm 1975 sau khi Việt Nam hoàn toàn độc lập thì Đảng ta xác định  nhiệm vụ  của cả  nước là xây dựng CNXH, bảo vệ  độc lập dân tộc. Hiện nay  Đảng ta xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là thực hiện thành công sự  nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để xây dựng nước Việt  Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh với các mục tiêu cụ thể: Về chính trị: Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN  Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.  Về kinh tế:Thực hiện nền kinh tế định hướng XHCN nhiều thành phần. Về  văn hóa ­ xã hội:  Xây dựng xã hội học tập, thực hiện nam nữ bình  quyền…
  17. ­ Về Lực lượng cách mạng: Từ 1930 đến nay Đảng ta luôn xác định Công  nhân – nông dân là lực lượng cơ bản của cách mạng trong đó giai cấp công nhân  giữ vai trò lãnh đạo cách mạng, chủ trương đại đoàn kết toàn dân trong mặt trận   dân tộc thống nhất để tiến hành cách mạng. Qua từng thời kỳ lịch sử khác nhau,  mặt trận dân tộc thống nhất có những tên gọi khác nhau song đều thực hiện mục  tiêu chung là tập hợp, đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngày nay, lực  lượng cách mạng là đại đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận tổ quốc Việt Nam   trên nền tảng khối liên minh công nhân – nông dân và đội ngũ trí thức để tiếp tục   thực hiện sự nghiệp cách mạng.    ­ Về phương pháp cách mạng: Từ năm 1930 Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta  dùng phương pháp bạo lực cách mạng, đấu tranh vũ trang kết hợp đấu tranh chính  trị, ngoại giao tiến hành và chiến thắng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống  nhất đất nước. Ngày nay, trong điều kiện hòa bình, chúng ta sử dụng phương pháp   hòa bình để tiếp tục tiến hành sự nghiệp cách mạng, song Đảng chủ trương xây   dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững chắc, xây dựng lực lượng  vũ trang chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại để đảm bảo đủ thực lực bảo vệ  vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. ­ Về vai trò lãnh đạo của Đảng: Từ năm 1930 đến nay Đảng cộng sản Việt  Nam luôn giữ vững vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt  Nam lãnh đạo toàn diện đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn bộ  hệ  thống chính trị. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, cách mạng Việt Nam đã đi  từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đảng vừa ra đời đã lãnh đạo cao trào cách   mạng 1930 – 1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh, cao trào cách mạng những  năm 1936 – 1939 và cao trào cách mạng 1939 – 1945, đảng 15 tuổi đã lãnh đạo nhân   dân ta làm nên cách mạng tháng 8/1945 khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng  hòa, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ lầm than lên làm chủ nước nhà. Đảng lãnh   đạo thành công 9 năm kháng chiến chống Pháp làm nên chiến thắng lịch sử Điện  Biên Phủ “lừng lẫy 5 châu, chấn động địa cầu”.  Từ năm 1954 đến 1975 Đảng lãnh   đạo thành công công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và hoàn thành  cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thống nhất nước nhà, đưa  cả  nước tiến lên xây dựng chủ  nghĩa xã hội. Ngày nay, dưới sự  lãnh đạo của   Đảng, đất nước ta đang thực hiện công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại   hóa để thực hiện mục tiêu xây dựng tổ quốc dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công  bằng, văn minh. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết để cách mạng Việt  Nam giành thắng lợi. ­  Về  đoàn kết quốc tế:  Cách mạng Việt Nam luôn là một bộ  phận của  phong trào cách mạng thế giới, nhận được sự giúp đỡ to lớn của phong trào cách  mạng thế giới, sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và nhân dân tiến bộ trong đó   có nhân dân tiến bộ của ngay cả những nước đế quốc xâm lược Việt Nam, đồng   thời thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã đóng góp to lớn vào phong trào giải  phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, đấu tranh vì hòa bình trên thế giới. Ngày nay, 
  18. Đảng và nhà nước ta luôn chủ trương làm bạn với tất cả các nước trên thế giới,   không phân biệt thể chế chính trị, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống   nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và tôn  trọng quyền dân tộc tự quyết, hai bên cùng có lợi. Kết luận:   Tóm lại trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, Cương lĩnh chính trị đầu  tiên của Đảng đã chứng minh được vai trò và giá trị to lớn của nó, tuy nhiên trong   từng thời kỳ cách mạng, Đảng ta đã vận dụng cương lĩnh một cách sáng tạo, đề ra  các nhiệm vụ chiến lược phù hợp để  chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam   giành thắng lợi.  Câu 5 Tính tất yếu ra đời của Đảng? Ý nghĩa đối với công cuộc đổi  mới và con đường đi lên CNXH hiện nay? Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập ngày 3­2­1930. Sự  ra đời của  Đảng là kết quả  tất yếu của một quá trình vận động cách mạng trong hoàn   cảnh cụ thể của nước ta, phù hợp với xu thế  phát triển của thời đại mới, là  sự  kiện có ý nghĩa quyết định đối vơí tiến trình phát triển của cách mạng   Việt Nam. ­ Tình hình thế giới Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh phát  triển thành chủ  nghĩa đế  quốc. CNĐQ xâm chiếm hầu hết các vùng đất trên   TG, biến các nước nhỏ  yếu thành thuộc địa. Các phong trào đấu tranh giải  phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ nhất là ở châu Á. Năm 1917, cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã mở ra thời đại mới  cho lịch sử loài người ­  thời đại quá độ lên CNXH. 3/1919, Quốc tế Cộng sản   được thành lập trở  thành bộ  tham mưu chiến đấu, tổ  chức lãnh đạo phong  trào cách mạng vô sản toàn thế  giới. Quốc tế  cộng sản không những vạch  hướng chiến lược của cách mạng vô sản mà đối với các vấn đề  dân tộc và  thuộc địa, chú trọng giúp đỡ và chỉ đạo phong trào cách mạng giải phóng của  các dân tộc thuộc địa. Tư tưởng, lý luận chủ nghĩa cộng sản đã ảnh hưởng và  thức tỉnh phong trào dân tộc ở các thuộc địa trong đó có Việt Nam. ­ Bối cảnh trong nước:  1/9/1858 Thực dân Pháp nổ  súng xâm lược và từng bước thôn tính Việt  Nam. Triều đình nhà Nguyễn từng bước thỏa hiệp và đi đến đầu hàng hoàn   toàn (với các điều ước năm 1862,1874,1883,1884). Nước ta từ một nước phong   kiến độc lập trở  thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. TD Pháp chia   nước ta thành 3 kì (Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ) với các chế độ  chính trị khác  nhau nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc. Chúng tiến hành chính sách ngu  dân để dễ bề cai trị, nhà tù nhiều hơn trường học, du nhập văn hóa đồi trụy,  
  19. khuyến khích tệ  nạn xã hội, dùng rượu cồn và thuốc phiện đầu độc thế  hệ  trẻ… Pháp tiến hành 2 cuộc khai thác thuộc địa (1897 – 1914; 1919 ­ 1929) tập   trung chủ  yếu vào các lĩnh vực như  giao thông vận tải, xây dựng đê điều,  công nghiệp khai khoáng (khai thác  mỏ), trồng cây CN (cao su, chè,..). GCCN   Việt Nam xuất hiện trong xã hội. Cuối năm 1929, công nhân Việt Nam có hơn  22 vạn người, chiếm 1,2% dân số. Tình trạng khủng hoảng kinh tế­xã hội, đặc biệt là các mâu thuẫn về  dân tộc và giai cấp dẫn đên nhu cầu đấu tranh để tự giải phóng. Độc lập dân   tộc và tự do dân chủ là nguyện vọng tha thiết của nhân dân ta là nhu cầu bức  thiết của dân tộc Đảng ra đời là kết quả của quá trình lựa chọn con đường cứu nước   cho dân tộc Việt Nam. Cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược dành độc lập dân tộc đã  diễn ra liên tục mạnh mẽ. Các phong trào yêu nước phát triển theo nhiều  khuynh hướng chính trị  khác nhau: theo khuynh hướng phong kiến của các  nho sĩ (Cần Vương, nông dân Yên Thế,...); khuynh hướng DCTS (PB Châu,   PC Trinh); khởi nghĩa Yên Bái,.... Nhưng các phong trào giải phóng dân tộc ở  nước ta đầu thế  kỉ  XX đều thất bại do những nguyên nhân chủ  yếu: thiếu  một đường lối chính trị  đúng đắn (chưa giải quyết được mâu thuẫn cơ  bản  của DT VN lúc đó); thiếu một tổ  chức lãnh đạo CM chặt chẽ  (một đảng  chính trị); thiếu lực lượng CM (ko tập hợp được rộng rãi các GC tầng lớp  trong XH). Việt Nam lâm vào khủng hoảng, bế  tắc về đường lối cứu nước,   nhiệm vụ  lịch sử  đặt ra là cần phải có một tổ  chức cách mạng tiên phong,  đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc. Giai đoạn 1920 – 1929, dưới sự ảnh hưởng của Quốc tế thứ ba cùng với  sự truyền bá chủ nghĩa Mac­ Lênin vào Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc, phong  trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam phát triển cả về chất lượng   và số lượng, kết thành một làn sóng dân tộc dân chủ  ngày càng lan rộng, đặc  biệt là từ  khi Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phát động phong trào “vô  sản hóa” vào cuối cuối những năm 1928 và đầu 1929. Ở  Việt Nam lần lượt  xuất hiện ba tổ  chức cộng sản:  Đông Dương Cộng sản Đảng (17/6/1929)  ở  Bắc kỳ, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (1/1/1930) ở Trung kỳ và An Nam  Cộng sản Đảng (11/1929) ở Nam Kỳ. Sự  ra đời của ba tổ  chức cộng sản chứng tỏ  chủ  nghĩa Mác –Lênin đã  thấm  sâu  vào  phong  trào  công  nhân,  phong  trào  yêu  nước  Việt  Nam ­ điều  kiện cho sự  thành lập Đảng đã chín muồi. Tuy nhiên, các tổ chức hoạt động  riêng  rẽ,  tranh  giành  ảnh  hưởng  lẫn  nhau  gây  bất  lợi cho  phong  trào cách  mạng.Trước yêu cầu của lịch sử, từ ngày 6/1 đến ngày 8/2/1930, Nguyễn Ái  Quốc triệu tập Hội Nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Cửu Long (Hương  
  20. Cảng – Trung Quốc).  Hội nghị  đã nhất trí hợp nhất các tổ  chức cộng sản  thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị  đã   thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và   Điều lệ  vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các văn kiện này hợp thành   Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam – chỉ ra các luận  điểm cơ  bản về  đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt   Nam. Sự ra đời của Đang CMVN la tât yêu l ̉ ̀ ́ ́ ịch sử bởi: ́ ̀ ́ ̉ ́ ̀ ̉ ̣ ́ ̣ ­ Đo la kêt qua chin muôi cua cuôc đâu tranh dân tôc va đâu tranh giai câp ̀ ́ ́  trong thơi đai lich s ̀ ̣ ̣ ử mơi. ́ ̉ ̉ ự  chuân bi công phu va khoa hoc cua lanh tu NAQ ­ Đo la kêt qua cua s ́ ̀ ́ ̉ ̣ ̀ ̣ ̉ ̃ ̣   ̉ ̣ ̣ ư tưởng va tô ch trên ca ba măt chinh tri t ́ ̀ ̉ ức. ́ ̀ ̉ ̉ ­ Đo la san phâm cua s ̉ ự  kêt h́ ợp giưa chu nghia M­L v ̃ ̉ ̃ ơi phong trao đâu ́ ̀ ́  ̉ tranh cua GCCN va phong trao yêu n ̀ ̀ ươc cua nhân dân VN trong đâu thê ky ́ ̉ ̀ ́ ̉  XX. Sự  ra đời cua ĐCSVN v ̉ ưa thê hiên quy luât phô biên cua s ̀ ̉ ̣ ̣ ̉ ́ ̉ ự  hinh thanh ̀ ̀   ́ ̉ ̉ ̉ chinh đang CM cua GCCN (chu nghia M­L kêt h ̃ ́ ợp vơi phong trao công nhân) ́ ̀   vưa thê hiên quy luât đăc thu VN (chu nghia M­L kêt h ̀ ̉ ̣ ̣ ̣ ̀ ̉ ̃ ́ ợp vơi phong trao CN va ́ ̀ ̀  p/trao yêu n ̀ ước VN). ĐCSVN ra đời là bươc ngoăt trong đai, ch ́ ̣ ̣ ̣ ấm dứt thời kì khủng hoảng  sâu sắc về  giai cấp lãnh đạo và đường lối cứu nước; kêt thuc th ́ ́ ơi ky đâu ̀ ̀ ́  tranh tự  phat chuyên sang th ́ ̉ ơi ky đâu tranh t ̀ ̀ ́ ự  giac. Ch ́ ưng to GCCN VN đa ́ ̉ ̃  ́ ̣ ưởng thanh đu s đên đô tr ̀ ̉ ưc lanh đao cach mang thông qua đôi tiên phong cua ́ ̃ ̣ ́ ̣ ̣ ̉   minh.  ̀ Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh, sau khi ra đời (3/2/1930),  Đảng đã lãnh đạo giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam tiến hành  cuộc cách mạng dân tộc dân chủ  nhân dân, tiến lên CNXH và đỉnh cao là  thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành lập nước Việt Nam   Dân chủ Cộng hòa ­ nhà nước của dân, do dân và vì dân, nhà nước vô sản đầu  tiên  ở  Đông Nam Á. Nhân dân ta từ  thân phận nô lệ, đứng lên làm chủ  đất  nước, làm chủ vận mệnh mình. Đảng ta đã có quá trình chuẩn bị trong suốt 15   năm, qua các phong trào cách mạng 1930 – 1931, 1936 – 1939 và thoái trào cách   mạng 1932 – 1935, đã đúc rút được những bài học kinh nghiệm qua những  thành công và thất bại, nhất là trong quá trình điều chỉnh, hoàn thiện lý luận  cách mạng, xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách  mạng và chớp thời cơ cách mạng tiến hành Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm  1945 giành thắng lợi trong cả nước. Chiến thắng lịch sử   Điện Biên Phủ  (7/5/1954) và chiến dịch Hồ  Chí   Minh (30/4/1975) là những chiến thắng vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại  xâm của dân tộc Việt Nam, chấm dứt 117 năm chống lại các thế lực thực dân,  đế  quốc xâm lược. Đồng thời khẳng định đường lối và phương pháp cách 

 

TOP Download

Tài liệu đề nghị cho bạn:

popupslide2=2Array ( )