Nâng cấp TK VIP tải tài liệu không giới hạn và tắt QC

Tài liệu thi Triết (Có đáp án)

Nội dung tài liệu trình bày 10 câu hỏi về triết học và đưa ra đáp án cụ thể giúp các bạn ôn tập, củng cố kiến thức để làm bài thi thật tốt. Mời các bạn tham khảo!

23-12-2018 141 12
QUẢNG CÁO

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. Câu 1: Quan điểm toàn diện là gì? Đồng chí hãy vận dụng quan điểm toàn   diện để đề xuất giải pháp nhằm “ phòng và chống suy thoái về tư tưởng,   chính trị, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa tại cơ quan” Quan điểm toàn diện là quan điểm mà khi nghiên cứu sự vật phải xem  xét tất cả các mặt, các yếu tố tạo thành nó và các mối liên hệ giữa sự vật ấy  và sự vật, hiện tượng khác.  ­ Quan điểm toàn diện yêu cầu phải nhìn nhận sự  vật như  1 chỉnh thể,   phải phân biệt giữa cái chính và cái phụ, đánh giá đúng vị  trí và vai trò của  từng mối liên hệ, tránh xem xét 1 cách đồng đều, bình quân. ­ Trong hoạt động thực tiễn, quan điểm toàn diện đòi hỏi phải sử dụng   đồng bộ  nhiều biện pháp, nhiều phương tiện khác nhau để  tác động nhằm   thay đổi sự vật. ­ Cấn phải có quan điểm lịch sử  cụ  thể  khi xem xét và giải quyết mọi  vấn đề  do thực tiễn đặt ra, phải chú ý đúng mức đến hoàn cảnh lịch sử  đã  làm phát sinh vấn đề, bối cảnh hiện thực khách quan và chủ quan. ­ Nghiêm khắc phê phán quan điểm phiến diện, chủ  nghĩa chiết trung,  thuật ngụy biện khi quán triệt quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử  cụ  thể. Liên hệ các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối   sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa tại cơ quan, đơn vị: Song song với 14 năm hình thành và phát triển của huyện Đam Rông,  công tác đoàn và phong trào thanh thiếu nhi huyện Đam Rông đã đạt được  nhiều kết quả  quan trọng. Đoàn viên, thanh niên trên địa bàn huyện tích cực   tham   gia   xung   kích   tình   nguyện   vì   cộng   đồng,   hưởng   ứng   hiến   máu   tình  nguyện, công tác đền  ơn đáp nghĩa... Tích cực phối hợp tổ  chức các hoạt   động tư vấn, hỗ trợ thanh niên tiếp cận, sử dụng nguồn vốn vay  ưu đãi phát   triển kinh tế, xóa đỏi giảm nghèo. Tuy nhiên, trong thời kì quá độ  lên CNXH  và bị  ảnh hường tiêu cực từ cơ chế thị trường,  các biểu hiện suy thoái về tư  tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa đã xuất hiện  tại một số cơ sở đoàn và trong một bộ phận đoàn viên thanh niên. Suy thoái về tư tưởng chính trị: ­ Phai nhạt về  lý tưởng, hoài nghi về  chủ  nghĩa Mác ­ Lênin, tư  tưởng  Hồ  Chí Minh, về  chủ  nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ  nghĩa xã hội,   đường lối cách mạng của Đảng; không thường xuyên trau dồi đạo đức cách  mạng, không có lối sống trong sáng, chính trực. ­ Ngại học tập lý luận chính trị, ngại tham gia các tổ chức đoàn thể, các   phong trào thi đua, phong trào cách mạng; không báo cáo đúng sự thật, không  trung thực, thẳng thắn trong phê bình và tự phê bình, thiếu dân chủ  hoặc dân   chủ hình thức, giả tạo; sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy 
  2. sai không đấu tranh; không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt  của Đảng ­ Nói và làm không nhất quán, không đúng đường lối, quan điểm của  Đảng, pháp luật của Nhà nước, phụ  họa theo các quan điểm lệch lạc; xa rời   mục tiêu, lý tưởng của Đảng,  ­ Quan liêu, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao; xa dân, lãnh  đạm, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc và yêu cầu, đòi hỏi chính đáng  của nhân dân. ­ Thiếu gương mẫu trong việc chấp hành chủ  trương, chính sách của   Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của cơ quan, đơn vị và đời sống sinh  hoạt hằng ngày. Suy thoái về đạo đức, lối sống: ­ Chủ nghĩa cá nhân, lối sống vị kỷ, vụ lợi, buông thả, hưởng thụ, thiếu   lý tưởng, thiếu ý chí phấn đấu; hành động cơ hội, vì lợi ích cá nhân, đua đòi... ­ Cực đoan, cơ hội, vụ lợi, thực dụng; dĩ hòa vi quý, a dua, nịnh bợ, lấy  lòng lãnh đạo; bệnh thành tích, bè phái, cục bộ địa phương, lợi ích nhóm, mất   đoàn kết; lối sống xa hoa, hưởng lạc. ­ Đạo đức của người đảng viên, cán bộ đoàn và đạo đức nghề nghiệp sa  sút, tham nhũng, hối lộ, bòn rút của công, lãng phí, quan liêu, chạy chức, chạy   quyền, chạy chỉ tiêu, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng. ­ Có các hành vi vi phạm đạo đức, thuần phong, mỹ  tục trong quan hệ  gia đình và quan hệ giữa cá nhân với xã hội như: gia trưởng, vũ phu, bất hiếu,  mê tín, dị đoan ­ Có hành vi vi phạm trật tự, an toàn xã hội; lối sống vô tổ  chức, vô kỷ  luật, tùy tiện vô nguyên tắc. Các biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa: Tự diễn biến và tự chuyển hóa trong cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh  niên được biểu hiện như sau:  ­ Suy giảm về  nhận thức, về  tư  tưởng chính trị, ngày càng xa rời mục  tiêu của chủ nghĩa xã hội, xa rời lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ  nghĩa xã hội, xa rời Chủ  nghĩa Mác ­ Lê­nin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh, xa rời   đường lối của Đảng. Thể  hiện  ở  việc phản bác, phủ  định “sạch trơn” học   thuyết Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường xây dựng chủ nghĩa  xã hội do Đảng lãnh đạo, nhân dân thực hiện. ­ Suy giảm niềm tin vào thắng lợi của chủ  nghĩa xã hội, thắng lợi của  công cuộc đổi mới đất nước vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thể hiện   ở việc ca ngợi, tán dương hình mẫu chủ nghĩa tư bản, tự do tư sản, đồng thời   xuyên tạc, bịa đặt, áp đặt ý chí chủ quan khi đánh giá về  Đảng, Nhà nước và  chế độ xã hội nhân dân ta đang xây dựng. ­ Suy giảm niềm tin vào sự  lãnh đạo của Đảng, sự  quản lý, điều hành  của Nhà nước, phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên, đoàn 
  3. viên nhất là cán bộ chủ  chốt. Thể hiện bằng thái độ  bất mãn, dao động, cực  đoan trước những vấn đề của xã hội, thực trạng của đất nước, về vai trò lãnh  đạo của Đảng, tương lai của dân tộc. Trong đấu tranh phê bình và tự phê bình  thể hiện sự cực đoan, thái quá hoặc lợi dụng các diễn đàn để  bày tỏ  thái độ  “đấu tranh” một cách bất mãn, chống đối và trục lợi cho bản thân ­ Suy giảm về  phẩm chất đạo đức, lối sống, ngày càng xa rời những   phẩm chất, chuẩn mực đạo đức, lối sống XHCN, trượt dần sang đạo đức, lối  sống tư sản, quay về với những thói hư, tật xấu của đạo đức, lối sống phong  kiến. Thể hiện thái độ “ba phải”, gió chiều nào theo chiều đó, không có chính  kiến, thờ   ơ, im lặng trước những vấn đề   ở  cơ  quan và của đất nước; chạy   chức, chạy quyền, tham ô tham nhũng, đề cao tư lợi, đề cao lợi ích nhóm, làm  giàu một cách bất chính; lối sống cục bộ địa phương, thực dụng, buông thả,   sa đọa, chia rẽ  làm mất đoàn kết nội bộ; phong cách làm việc cửa quyền,  hách dịch, tự mãn, nói nhiều làm ít, thiếu sự gắn bó với tập thể, cộng đồng. Nguyên nhân: a) Nguyên nhân khách quan ­ Do tính chất phức tạp của thời kỳ quá độ và tác động tiêu cực của cơ  chế  kinh tế  thị  trường. Nước ta đang trong thời kỳ  quá độ  lên chủ  nghĩa xã   hội bỏ  qua chế  độ  tư  bản chủ  nghĩa, từ  một xã hội vốn là thuộc địa nửa  phong kiến, đất nước trải qua nhiều năm chiến tranh, hậu quả  để  lại nặng   nề. Vì vậy, việc khắc phục những dấu vết của xã hội cũ, trong đó có đạo đức  phong kiến, đạo đức tư  sản đòi hỏi phải có thời gian, không thể  chủ  quan,   nóng vội. Tại Đại hội XI, Đảng ta xác định quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội  ở  Việt Nam "là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp  giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự  biến đổi về  chất trên tất cả  các lĩnh  vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ  lâu dài  với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ  chức kinh tế, xã hội đan xen".   Tính phức tạp này là một trong những nguyên nhân khách quan dẫn đến tình  trạng suy thoái về  chính trị, tư  tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ  phận   không nhỏ cán bộ đảng viên, đoàn viên thanh niên hiện nay. ­ Do sự tác động của đạo đức, lối sống, hưởng thụ tư sản du nhập vào  nước ta trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế  và công nghệ  thông  tin. ­ Do sự chống phá của các thế lực thù địch. Các thế lực thù địch, phản   động chống phá quyết liệt trên mặt trận tư  tưởng, chính trị; tuyên truyền, ca   ngợi lối sống ích kỷ, hưởng thụ, thực dụng trong cán bộ lãnh đạo và gia đình  họ, đảng viên, đoàn viên thanh niên, đây là một trong những biện pháp thực  hiện "diễn biến hòa bình" của chúng. b) Nguyên nhân chủ quan ­ Do chưa làm tốt công tác chính trị, tư  tưởng, công tác tuyên truyền,  giáo dục. Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ  chưa cao; công tác quản lý  đảng viên, đoàn viên chưa chặt chẽ; sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung  
  4. sinh hoạt nhìn chung còn nghèo nàn, tự  phê bình và phê bình yếu; động cơ  phấn đấu vào Đảng của một số  người có biểu hiện lệch lạc; kỷ  luật, kỷ  cương   ở   nhiều   tổ   chức   đảng   không   nghiêm;...   Đặc   biệt,   tinh   thần   trách  nhiệm, ý thức tự  giác, tính chiến đấu, tính đảng  ở  nhiều cán bộ, đảng viên  giảm sút.  ­ Do chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc vai trò nền tảng của đạo đức  trong ổn định, phát triển xã hội và tác động của cơ chế kinh tế thị trường đến   đạo đức xã hội.  Giải pháp Một là,  đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt sâu sắc trong đội ngũ cán  bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên  về  mục đích, ý nghĩa của việc thường   xuyên học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đây  là giải pháp quan trọng hàng đầu, nhằm nâng cao trình độ nhận thức chính trị,  bản lĩnh vững vàng, năng lực tư  duy toàn diện của cán bộ, đảng viên, đoàn  viên thanh niên đủ  sức tự  giải đáp và tự  đề  kháng mọi sự  cám dỗ  của cuộc   sống vật chất đơn thuần, không rơi vào tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị,   chủ nghĩa cá nhân, đạo đức giả, lối sống thực dụng. Đây cũng là cơ sở để xây  dựng nền tảng đạo đức, tinh thần, văn hóa của xã hội, tạo môi trường tốt để  ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về  tư  tưởng chính trị  và đạo đức lối   sống của cán bộ, đảng viên hiện nay. Hai là,  thực hiện tốt Nghị  quyết Trung  ương 4 khoá XI gắn với đẩy  mạnh việc làm theo tấm gương đạo đức Hồ  Chí Minh; trọng tâm là công tác  giáo dục chính trị tư tưởng, công tác tổ  chức, cán bộ và thực hiện các nguyên  tắc tổ chức sinh hoạt đảng, giữ  gìn kỷ  luật, kỷ  cương.  Tăng cường công tác  quản lý đảng viên, bảo vệ  chính trị  nội bộ. Xây dựng tiêu chuẩn các chức   danh cán bộ  và các tiêu chí đánh giá cán bộ, lấy hiệu quả  hoàn thành nhiệm   vụ để đánh giá cán bộ. Với cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt, ngoài việc phải  gương mẫu thực hiện, còn phải trực tiếp chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc thực  hiện ở cơ quan, đơn vị, cơ sở đoàn do mình phụ trách. Theo dõi, kiểm tra việc   khắc phục, sửa chữa khuyết điểm sau kết luận thanh tra, kiểm tra; chỉ đạo xử  lý nghiêm các cá nhân và đảng viên vi phạm.  Ba là,  thực hiện nghiêm túc công tác tự  phê bình và phê bình.  Tự  phê  bình và phê bình cần có ý chí và quyết tâm cao, dám nhìn thẳng vào sự  thật,  đánh giá sát đúng sự thật, không nể nang, né tránh trước những vấn đề  nhạy   cảm về đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên. Đây là việc làm đụng chạm  đến uy tín, danh dự, lòng tự trọng của cá nhân. Nhưng nếu sợ mất lòng, “dễ  người, dễ ta”, dĩ hòa vi quý thì tự phê bình và phê bình sẽ không phát huy tác  dụng, thậm chí mất thời gian và công sức mà không mang lại hiệu quả  như  mong muốn. Tự phê bình và phê bình là biện pháp tốt nhất để  phát huy ưu điểm và   sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm, ngăn chặn "tự diễn biến", "tự chuyển  
  5. hóa" trong nội bộ; chống tệ  quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ  nghĩa cá  nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, lợi ích nhóm, đặc quyền, đặc lợi,   nói không đi đôi với làm, nói nhiều, làm ít. Khi tự  phê bình, phê bình cần khắc phục biểu hiện “dĩ hòa vi quý”,   đánh giá nhận định chủ quan, chung chung, thiếu cụ thể. Cần nhận diện đầy   đủ biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống; chỉ rõ từng bộ  phận, từng đối tượng nào suy thoái, suy thoái mặt nào,  ở  mức độ  nào để  có  biện pháp khắc phục hiệu quả. Cũng cần khắc phục tâm lý chủ  quan cho  rằng chi bộ, đảng bộ  được cấp  ủy cấp trên đánh giá, công nhận đạt trong  sạch vững mạnh, nên không có sự  suy thoái tư  tưởng chính trị, đạo đức lối  sống. Khi tiến hành tự  phê bình, phê bình, phải có sự  chuẩn bị chu đáo, chặt  chẽ, vừa đảm bảo nguyên tắc, quy trình, vừa linh hoạt, mềm dẻo về phương   pháp, cách thức. Quá trình tự phê bình, phê bình cần đảm bảo dân chủ, nghiêm  túc, thẳng thắn với tinh thần đấu xây dựng vì tình yêu thương đồng chí lẫn  nhau; bí thư cấp ủy và thủ trưởng cơ quan đơn vị phải trực tiếp lãnh đạo, tổ  chức thực hiện và nêu gương tự phê bình trước cấp ủy và chi bộ. Đây là nhân  tố quan trọng quyết định chất lượng tự phê bình và phê bình. Bốn là, thực hiện tốt cơ chế kiểm tra, giám sát của nhân dân, phản ánh  của của báo chí, dư luận xã hội vể phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ,  đảng viên. Khi phát hiện cán bộ, đảng viên vi phạm, sai phạm về  đạo đức,   lối sống, phải xử  lý kịp thời, nghiêm minh quy định của Đảng và pháp luật   của Nhà nước. Câu 2: Giai cấp Công nhân là gì? Có sứ  mệnh lịch sử  gì? Vì sao có sứ   mệnh LS đó? Liên hệ giai cấp công nhân Việt Nam. Giai   cấp   công  nhân:   là  sản   phẩm  và   là   chủ   thể   của  quá   trình   công  nghiệp hóa, hiện đại hóa, đại biểu cho phương thức sản xuất mang tính xã   hội hóa ngày càng cao và là lực lượng đi đầu trong cuộc đấu tranh vì tiến bộ  xã hội; là giai cấp có sứ mệnh lịch sử xóa bỏ chế  độ  TBCN, xây dựng thành  công CNXH và CNCS trên toàn thế giới Nội dung sứ  mệnh lịch sử  toàn thế  giới của giai cấp công nhân : là  người tổ  chức lãnh đạo xã hội thông qua đội tiền phong của mình là đảng  cộng sản; đấu tranh giải phóng mình và giải phóng toàn xã hội khỏi mọi sự  áp bức, bất công; xóa bỏ CNTB, xây dựng CNXH và CSCN. Sứ mệnh này dc  thể hiện ở 3 nội dung ­ Nội dung kinh tế: giai cấp công nhân dù ở chế độ chính trị nào, cũng là   chủ  thể  của quá trình sản xuất vật chất bằng phương thức sản xuất công  nghiệp mang tính chất xã hội hóa cao, sản xuất ngày càng nhiều của cải, đáp 
  6. ứng những nhu cầu ngày càng tăng của con người. Qua đó, họ tạo ra tiền đề  vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của xã hội mới.   Nội dung kinh tế này là yếu tố sâu xa nhất khẳng định sự cần thiết và   quy mô phạm vi toàn thế giới về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đối  với quá trình phát triển của văn minh nhân loại.  Thực hiện đầy đủ  và thành   công nội dung này cũng là điều kiện vật chất để  chủ  nghĩa xã hội chiến   thắng chủ nghĩa tư bản. ­ Nội dung chính trị ­ xã hội: Giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao  động, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, tiến hành cách mạng chính trị lật  đổ  chế  độ  tư  bản chủ  nghĩa với tư  cách là một chế  độ  chính trị  còn áp bức,   bất công, để xác lập, bảo vệ  và phát triển chế  độ  dân chủ  xã hội chủ  nghĩa   với mục tiêu tối thượng là giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột và được  tạo điều kiện phát triển toàn diện.  Giai cấp công nhân giải quyết đúng đắn vấn đề  chính trị  xã hội đặt ra   trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa như liên minh giai cấp, tầng lớp,  đoàn kết các dân tộc, xây dựng xã hội mới, con người mới, v.v. ­  Nội dung văn hóa tư  tưởng: giai cấp công nhân trong tiến trình cách  mạng của mình xác lập hệ  giá trị, tư  tưởng của giai cấp công nhân để  thay  thế cho hệ giá trị, tư tưởng tư sản và “những hệ tư tưởng cổ truyền” lạc hậu   khác. Thực chất đó là một cuộc cách mạng về văn hóa, tư tưởng bao gồm cải   tạo cái cũ, xây dựng cái mới trong sự  kế  thừa những tinh hoa của và giá trị  truyền thống của văn hóa dân tộc.  Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa và con người được phát triển tự  do và toàn diện trong xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là những mục tiêu  hàng đầu của cuộc cách mạng này. Sở dĩ giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử này là do các điều kiện  khách quan và chủ quan quy định: * Về điều kiện khách quan: Thứ nhất, do địa vị kinh tế ­ xã hội của giai cấp công nhân:  ­ Là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất có trình độ XH hóa cao và  phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại. ­ Trong quá trình sản xuất vật chất trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ  công nghiệp hiện đại, họ là lực lượng tạo ra phần lớn của cải cho xã hội, lao   động thặng dư của họ là nguồn gốc chủ  yếu đem lại sự giàu có và thúc đẩy  xã hội phát triển. ­ GCCN bị  bóc lột giá trị  thặng dư  trong quá trình làm thuê cho nhà tư  bản. Do đó, lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân đối lập trực tiếp với lợi ích   cơ bản của giai cấp tư sản. 
  7. =>Vì vậy, giai cấp công nhân phải đấu tranh nhằm xóa bỏ  sự  áp bức,   bóc lột của giai cấp tư sản , xây dựng một xã hội mới mà ở đó giai cấp công   nhân và nhân dân lao động được giải phóng, được phát triển toàn diện, một xã   hội nhân văn, tiến bộ và phát triển bền vững. Thứ hai, do đặc điểm chính trị ­ xã hội của giai cấp công nhân quy định. ­ Với tư cách chủ thể trực tiếp của quá trình sản xuất công nghiệp hiện  đại, trình độ  chuyên môn, kỹ  thuật, trình độ  học vấn và ý thức chính trị  của   giai cấp công nhân ngày càng được nâng cao. Xét về góc độ chính trị, các cuộc   đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ đã tôi luyện và cung cấp cho GCCN những tri   thức chính trị­ xã hội cần thiết để  giai cấp công nhân trở  thành giai cấp tiên   tiến trong xã hội. ­ Chính môi trường sản xuất công nghiệp hiện đại đã tôi luyện cho giai   cấp công nhân tính tổ chức kỹ luật cao và tác phong công nghiệp hiện đại. ­ Giai cấp công nhân có hệ  tư tưởng độc lập, được vũ trang bởi lý luận  tiền phong là chủ nghĩa Mác ­ Lê nin và có chính đảng của mình là đảng cộng  sản lãnh đạo. Do đó, họ  có khả  năng tổ   chức, lãnh đạo, đoàn kết chính giai  cấp mình và đồng thời đoàn kết với các GC, tầng lớp khác trong cuộc dấu  tranh  vì  mục tiêu chung: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ  và tiến bộ  xã   hội. ­ Tinh thần triệt để cách mạng thể hiện ở hai điểm: Một là, phương thức  đấu tranh: xóa bỏ tận gốc chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất với   tư  cách là chế  độ  áp bức, bóc lột. Hai là,  ở  mục têu cuối cùng: phải giải   phóng toàn bộ xã hội khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột. Thứ  ba:  Bản thân  các mâu thuẫn cơ  bản của chủ  nghĩa tư  bản khách   quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. ­ Xét về mặt kinh tế, Mâu thuẫn cơ  bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và quá  trình vận động của nó. Đó là xung đột giữa tính xã hội hóa ngày càng cao của  LLSX   với tnh1 chất nhân hóa của QHSX tư  bản chủ  nghĩa.   Đây là mâu  thuẫn cơ  bản của Chủ  nghĩa tư  bản tất yếu khách quan đặt ra nhu cầu thay  đổi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa mở đường cho LLSX phát triển. Đây  là quá trình khách quan và được quá trình sản xuất hiện đại vạch ra. Xã hội hiện đại với xu thế  xã hội hóa, dân chủ  hóa mạnh mẽ  hiện nay   cũng đang làm chín muồi những tiền đề  khách quan cho sứ mệnh lịch sử của   giai cấp công nhân.Nhìn chung, không chỉ  chủ  nghĩa tư  bản mà cả  quá trình  xây dựng chủ  nghĩa xã hội, chủ  nghĩa cộng sản đều cần đến những tiền đề  vật chất từ  lực lượng sản xuất  ở  trình độ  xã hội hóa cao. C.Mac coi đó là "  tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết.
  8. ­ Xét về  mặt chính trị ­ xã hội, đó là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân  với giai cấp tư sản. Biểu hiện: Chế độ bóc lột giá trị thặng dư đã làm cho lợi ích cơ bản của GCCN và  GCTS đối lập nhau. Mâu thuẫn này không thể  điều hòa và đó là động lực   chính của cuộc đấu tranh giai cấp hiện đại. Giải quyết mâu thuẩn này là tất  yếu khách quan nhằm xóa bỏ  cơ  sở  chế  độ  người bóc lột người cuối cùng  trong lịch sử. Muốn thực hiện điều dó phải xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư  bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu với mục tiêu giải phóng người lao   động. Đối tượng xóa bỏ   ở  đây là chế  độ  sở  hữu tư  bản tư  nhân tư  bản chủ  nghĩa với tư cách là nguồn gốc sinh ra áp bức, bóc lột. Tuy nhiên, xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân cần được hiểu là một quá trình  “lịch sử  ­ tự  nhiên” chứ  không thể  duy ý chí. Xét đến cùng, sự  nghiệp này  cũng chịu sự quy định của trình độ lực lượng sản xuất. Nhưng muốn xóa bỏ  nó thì phải xóa bỏ chế độ chính trị ­ là cái đang bảo vệ quan hệ sản xuất ấy.  Lật đổ  chế  độ  tư  sản, nhà nước của giai cấp tư  sản, xác lập nhà nước   của giai cấp công nhân là tất yếu trong quá trình cách mạng kinh tế. Như  vậy, cả  hai mặt của mâu thuẫn cơ  bản này không thể  giải quyết  triệt để trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản và tất yếu dẫn đến cách mạng  xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân tiến hành dưới sự lãnh đạo và tổ chức   của chính đảng của giai cấp công nhân.  =>Đó là sự quy định khách quan cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp công  nhân. * Về điều kiện chủ quan: Sự phát triển về số lượng của giai cấp công nhân. Sự phát triển về lượng của giai cấp công nhân bao gồm sự phát triển số  lượng lao động công nghiệp trong tổng số  lao động xã hội, tỷ  lệ  lao động  công nghiệp trong lĩnh vực kinh tế, xã hội và cơ cấu của giai cấp công nhân. Thông qua sự phát triển về lượng của công nhận có thể thấy dc trình độ,  quy mô của công nghiệp hóa và sự  tự  chuẩn bị  của giai cấp đang làm sứ  mệnh lịch sử. Sự phát triển về chất của giai cấp công nhân. Với tư  cách là bộ  phận quan trọng nhất của LLSX hiện đại, năng lực  làm chủ  công nghệ  hiện đại của công nhân xác nhận vị  thế  đại diện cho  phương thức sản xuất tiên tiến. Trình độ văn hóa và tay nghề tương xứng với   công nghệ hiện đại là thước đo trình độ phát triển của công nhân. Với tư cách là chủ thể của sứ mệnh lịch sử, giai cấp công nhân cần phải   đạt tới trình độ giác ngộ cao về chính trị. Phẩm chất này được thể hiện trước  hết ở trình độ giác ngộ về giai cấp.
  9. Trong xã hội hiện đại, giai cấp công nhân cũng là đại biểu cho lợi ích  chân chính của dân tộc và cùng với dân tộc để  giải quyết những nhiệm vụ  lịch sử trong quá trình phát triển của quốc gia dân tộc là phẩm chất chính trị  cần tu dưỡng với giai cấp công nhân và chính Đảng của nó. Đảng cộng sản ­ nhân tố  chủ  quan cơ  bản nhất để  thực hiện sứ   mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Giai cấp công nhân muốn thực hiện thành công sứ  mệnh lịch sử  của  mình phải thông qua sự  lãnh đạo của đội tiền phong là tổ  chức Đảng cộng  sản ­ hạt nhân chính trị của giai cấp công nhân. Đảng Cộng Sản là lãnh tụ  chính trị  của giai cấp công nhân. Sự  thâm  nhập của chủ  nghĩa Mác, sự  hình thành Đảng Cộng sản đánh dấu trình độ  đấu tranh tự  giác, tính chất chính trị  của phong trào, làm cho phong trào đấu  tranh của giai cấp công nhân chuyển từ phong trào đấu tranh tự phát, lẻ tẻ, rời   rạc, vì mục đích kinh tế trước mắt, thành cuộc đấu tranh tự giác, có tổ chức,  có lãnh đạo, vì mục đích chính trị rộng lớn. Đảng cộng sản là bộ tham mưu của giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản  định ra cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược đấu tranh; là người tổ  chức, động viên sức mạnh, nguồn lực chính trị  xã hội trong phong trào công  nhân. Đảng có khả  năng thu hút đông đảo quần chúng nhân dân hướng theo   giai cấp công nhân, tiến hành cuộc đấu tranh lật độ ách thống trị của giai cấp   tư sản, xây dựng CNXH và CNCS. Đảng cộng sản là đội tiên phong đấu tranh cho lợi ích của giai cấp công   nhân và của dân tộc.  Tính tiên phong của Đảng Cộng Sản là đòi hỏi khách  quan của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân và các   tầng lớp nhân dân lao động tiến hành. Do vậy, đội tiền phong lãnh đạo sự  nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa phải là tổ chức của những con người ưu   tú nhất trong giai cấp công nhân và nhân dân lao động, có lý luận khoa học   dẫn đường; có ý chí và hành động cách mạng kiên định phù hợp với tư tưởng,   lý luận; có tổ  chức chặt chẽ, khoa học, dân chủ  và thống nhất; tính tiền  phong còn bao gồm cả phẩm chất hi sinh, gương mẫu của tổ chức Đảng và  đảng viên. Giai cấp công nhân coi Đảng Cộng sản là hạt nhân chính trị của mình và  sự ra đời của Đảng là mốc đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp công nhân.  Đảng coi giai cấp công nhân là cơ sở xã hội hàng đầu của mình. Quan hệ giữa  Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân là quan hệ  máu thịt và bất cứ  sự  chia   rẽ, xa rời nào cũng đều làm tổn hại cả hai nhân tố này và làm ảnh hưởng tiêu  cực đến quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử.       Giai cấp công nhân và Đảng của nó phải là trung tâm đoàn kết toàn   dân, đoàn kết quốc tế, ý chí, nhận thức và hành động thống nhất, đồng thời  
  10. kiên quyết đấu tranh chống mọi âm mưu phá hoại của các thế  lực thù địch,  phản động chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Liên hệ giai cấp công nhân Việt Nam: ­ GCCNVN là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm   những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại   hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ  công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh   và dịch vụ  có tính chất công nghiệp”. Đảng cộng sản Việt Nam chỉ  rõ: giai  cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn:  +Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là ĐCSVN +Giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; tiên phong trong   sự  nghiệp xây dựng CNXH, lực lượng đi đầu trong sự  nghiệp CNH – HĐH   đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,công bằng, văn minh; +Lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp   nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. ­ Cùng với quá trình CNH, GCCNVN ko ngừng tăng nhanh về số lượng,  chất lượng, cơ cấu đa dạng  + Trước đổi mới, số  lượng CN nước ta là 3,7 triệu, đến năm 2013 tăng  lên gần 11 triệu và đến nay là gần 15 triệu, chiếm 21% tổng số  lao động và   11% dân số  cả nước. Trong đó doanh nghiệp nhà nước có 2 triệu CN, doanh   nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có 1,6 triệu CN, số còn lại là doanh nghiệp   tư  nhân. Hàng năm công nhân và công nghiệp đống góp hơn 60% tổng sản   phẩm XH và 70% ngân sách nhà nước. + Phát huy vai trò lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng cộng sản. + Tiên phong trong xây dựng CNXH, lực lượng đi đầu trong CNH­HĐH­   hội nhập kinh tế thế giới;  + Là lực lượng nòng cốt trong liên minh công nông trí và đại đoàn kết  dân tộc  ­ Tuy nhiên, GCCNVN vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập cần được sớm  khắc phục + Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu của  sự nghiệp CNH – HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế  + Chưa đáp  ứng được yêu cầu về  số  lượng, cơ  cấu, trình độ  học vấn,   chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp; + Thiếu các chuyên gia kỹ  thuật, cán bộ  quản lý giỏi, công nhân lành  nghề; + Tác phong công nghiệp và kỹ luật lao động còn nhiều hạn chế;
  11. + Phần lớn công nhân xuất thân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản   và có  hệ  thống. Một bộ  phận công nhân chậm thích nghi với cơ  chế  thị  trường.  + Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không đồng đều; + Sự hiểu biết về chính sách pháp luật còn thiếu + Việc làm, đời sống vật chất và tình thần của công nhân đang có nhiều  khó khăn, bức xúc . Những thách thức của GCCN VN hiện nay ­ Đối với vai trò lãnh đạo đất nước đi lên CNXH đang có mâu thuẩn giữa   yêu cầu tiên phong, đi đầu trong sự  nghiệp lãnh đạo đất nước đi lên CNXH  với hiện trạng còn nhiều bất cập về  trình độ  văn hóa, tay nghề  và giác ngộ  chính trị trong một bộ phận lớn công nhân nước ta. ­ Đối với vai trò đi đầu trọng sự nghiệp CNH, HĐH gắn với phát triển tri  thức và hội nhập quốc tế, năng lực làm chủ  khoa học công nghệ  của công   nhân, năng lực lãnh đạo, tổ  chức quản lý của Đảng và Nhà nước, năng lực  quản lý và kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước, thể  chế  kinh tế  thị  trường định hướng XHCN chưa hoàn thiện. ­ Đối với vai trò là hạt nhân của khối liên minh công –nông –trí thức và  đại đoàn kết dân tộc, giai cấp công nhân nước ta hiện nay cũng còn nhiều bất   cập trước hai lực cản lớn là mặt trái của cơ  chế  thị  trường và năng lực tổ  chức quản lý của bản thân. ­ Đối với quá trình trình xây dựng và phát triển giai cấp công nhân nước   ta hiện nay,vấn đề  đặt ra là mâu thuẫn giữa thực trạng hiện có với nhu cầu  tăng cường vị  thế  và vai trò của giai cấp công nhân để  có thể  thực hiện sứ  mệnh lịch sử. Phương hướng và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân việt nam Xây dựng GCCN lớn mạnh , có giác ngộ  giai cấp và bản lĩnh chính trị  vững vàng; có ý thức công dân, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu cho   tinh hoa văn hóa của dân tộc; nhạy bén và vững vàng trước những diễn biến   phức tạp của tình hình trong nước; có tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết,  hợp tác quốc tế; thực hiện sứ  mệnh lịch sử của GCCN lãnh đạo cách mạng  thông   qua   ĐCS   VN.   Xây   dựng   GCCN   lớn   mạnh,   phát   triển   nhanh   về   số  lượng, nâng cao chất lượng, có cơ cấu đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước;  ngày càng được tri thức hóa;có trình độ  học vấn chuyên môn, kỹ  năng nghề  nghiệp cao, có khả  năng tiếp cận và lảm chủ  khoa học công nghệ  tiên tiến,   hiện đại trong điều kiện phát triển kinh tế  tri thức; thích  ứng nhanh với cơ  chế  thị  trường và hội nhập kinh tế  quốc tế; có gác ngộ  giai cấp, bản lĩnh   chính trị vững vàng, có tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động cao
  12. Phương hướng đến năm 2020 phấn đấu đạt: ­Hình thành và triển khai thực hiện chiến lược xây dựng giai cấp công  nhân gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội. ­Giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc, cấp bách của GCCN. ­Có bước tiến về đào tạo, nâng cao trình độ  đáp ứng yêu cầu phát triển  đất nước. ­Nâng cao giác ngộ  giai cấp, bản lĩnh chính trị, hiểu biết pháp luật, tác  phong công nghiệp và kỷ  luật lao động, xây dựng lối sống lành mạnh trong  CN  ­Tăng tỷ lệ đảng viên, cán bộ  lãnh đạo, quản lý xuất thân từ công nhân.  Phát triển đảng và xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở các doanh nghiệp. Đổi mới   nội dung phương thức hoạt động của tổ  chức đảng  ở  các doanh nghiệp phù  hợp với từng thành phần kinh tế  ­Đẩy mạnh phát triển đoàn viên và tổ  chức công đoàn, đoàn thanh niên..  tại các doanh nghiệp  Giải pháp xây dựng và phát triển GCCN Việt Nam ­ Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về giai cấp   công nhân trong điều kiện kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa,   đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc   tế. ­ Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước tri thức   hóa giai cấp công nhân. ­ Quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ  chính trị, ý thức giai cấp, tinh   thần dân tộc cho giai cấp công nhân ­ Bổ  sung, sửa đổi, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ  thống chính sách,   pháp luật để  đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân;   chăm lo đời sống tinh thần vật chất cho công nhân. ­ Tăng cường sự  lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của tổ  chức công   đoàn và các tổ chức chính trị ­ xã hội khác trong xây dựng giai cấp công nhân. Câu 3:  Tại sao nói quy luật giá trị  thặng dư  là quy luật kinh tế  cơ  bản   tuyệt đối của chủ  nghĩa tư  bản? Liên hệ  sự  vận động quy luật giá trị   thặng dư nền kinh tế ở nước ta? Giá trị thặng dư là bộ  phận giá trị  mới dôi ra ngoài giá trị  sức lao động,  do công nhân làm thuê tạo ra và thuộc về  nhà tư  bản. Giá trị  thặng dư  là lao  động không công của công nhân làm thuê, thể hiện bản chất bóc lột của quan  hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
  13. Mục đích của các nhà tư  bản là sản xuất ra giá trị  thặng dư  tối đa, vì  vậy, các nhà tư bản dùng hai phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá  trị thặng dư. Đó là: Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được bằng cách kéo  dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất  lao động, thời gian lao động tất yếu và giá trị sức lao động không thay đổi. Vd: Giả  sử  ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ  là thời gian lao động  tất yếu và 4 giờ  là thời gian lao động thặng dư, giá trị  thặng dư  tuyệt đối   được tạo ra trong thời gian lao động thặng dư là 4 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư  là 100%. Nếu ngày lao động kéo dài thành 10 giờ, trong khi năng suất lao  động, thời gian lao động tất yếu và giá trị  sức lao động không đổi, giá trị  thặng dư tuyệt đối được tạo ra trong thời gian lao động thặng dư là 6 giờ  và  tỷ suất giá trị thặng dư là 150%. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: Bất cứ nhà tư bản nào   cũng muốn kéo dài ngày công lao động của công nhân, nhưng việc kéo dài đó   không thể vượt qua giới hạn sinh lý của công nhân. Bởi vì, người công nhân   cần có thời gian ăn, ngủ, nghỉ  ngơi, giải trí để  phục hồi sức khỏe. Do vậy,   việc kéo dài thời gian lao động gặp sự phản kháng gay gắt của giai cấp công   nhân đòi giảm giờ làm. Khi độ dài ngày lao động không thể kéo dài thêm, vì lợi nhuận của mình,   nhà tư bản lại tìm cách tăng cường độ lao động của người công nhân. Vì tăng   cường độ  lao động có nghĩa là chi phí nhiều sức lao động hơn trong một  khoảng thời gian nhất định. Nên tăng cường độ  lao động về  thực chất cũng  tương tự  như  kéo dài ngày lao động. Vì vậy, kéo dài thời gian lao động hay  tăng cường độ  lao động đều để  sản xuất giá trị  thặng dư tuyệt đối. Phương  pháp này chủ  yếu áp dụng trong thời kỳ  đầu nền sản xuất tư bản, với việc   phổ biến sử dụng lao động thủ công và năng suất lao động thấp. Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được bằng cách rút  ngắn thời gian lao động tất yếu, nhờ đó kéo dài thời gian lao động thặng dư,  trong khi ngày công lao động có thể không đổi hoặc thậm chí rút ngắn. Vd: Ngày lao động có độ  dài 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ,  thời gian lao động thặng dư  là 4 giờ, giá trị  thặng dư  tuyệt đối được tạo ra  trong thời gian lao động thặng dư là 4 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là 100%.  Nếu ngày lao động không đổi, thời gian lao động tất yếu giảm xuống còn 3   giờ, thì tỷ suất giá trị thặng dư sẽ tăng lên thành 167%. Nếu ngày lao động rút   ngắn còn 7 giờ, thời gian lao động tất yếu giảm xuống còn 2 giờ, thì tỷ  suất  gá trị thặng dư sẽ tăng lên thành 250%. Điểm mấu chốt của phương pháp này là phải hạ  thấp giá trị  sức lao   động. Điều đó đồng nghĩa với giảm giá trị  các tư  liệu sinh hoạt và dịch vụ  cần thiết cho công nhân. Muốn vậy phải tăng năng suất lao động xã hội trong 
  14. các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất   để trang bị cho ngành sản xuất ra các tư liệu tiêu dùng. Phương pháp này được sử  dụng rộng rãi trong giai đoạn chủ  nghĩa tư  bản phát triển. nhưng lúc đầu chỉ  một số  nhà tư  bản làm được vì điều kiện   khoa học, kỹ thuật chưa cho phép. Khi đó, các nhà tư bản này tăng được năng  suất lao động nên thu được giá trị  thặng dư  siêu ngạch. Khi các nhà tư  bản   đều cải tiến kỹ thuật, giá trị thặng dư siêu ngạch sẽ không còn. Tất cả sẽ thu   được giá trị  thặng dư  tương đối. Do đó giá trị  thặng dư  siêu ngạch là biến  tướng của giá trị thặng dư tương đối. Ngoài GTTD tuyệt đối và GTTD tương đối, nhà tư  bản còn có cả  GTTD siêu ngạch: Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do áp dụng   công nghệ  mới sớm hơn các xí nghiệp khác làm cho giá trị  cá biệt của hàng   hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó. Như thế nhà tư bản chỉ phải bỏ ra ít chi phí hơn các nhà tư bản khác mà   vẫn bán được với giá như  các nhà tư  bản khác, từ  đó thu được giá trị  thặng  dư  cao hơn. Khi số  đông các xí nghiệp đều đổi mới kỹ  thuật và công nghệ  một cách phổ  biến thì giá trị  thặng dư  siêu ngạch của doanh nghiệp đó sẽ  không còn nữa. Như vậy, quy luật giá trị  thặng dư là quy luật kinh tế  cơ bản của chủ  nghĩa tư bản. Nó tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của XHTB, quyết định toàn  bộ  quá trình phát sinh, phát triển của CNTB và thay thế  CNTB bằng một xã  hội mới, cao hơn. Phản ánh mục đích của nền sản xuất và phương tiện đạt   mục đích. Sản xuất giá trị  thặng dư  phản ánh quan hệ  giữa tư  bản và lao   động, đây là quan hệ cơ bản trong Xh tư bản, nó tác động mạnh mẽ đến XH   TBCN. Liên hệ  sự  vận động quy luật giá trị  thặng dư  và nền kinh tế   ở  nước ta hiện nay: 1. Thực trạng Về  tực trang hiện nay, ta thấy: Trong học thuyết của C. Mác, có hai   phương pháp sản xuất giá trị  thặng dư là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối  và sản xuất giá trị  thặng dư  tương đối. Tuy nhiên, Việt Nam đi theo con  đường xã hội chủ  nghĩa, nên phương thức tạo ra giá trị  thặng dư  tuyệt đối  không được sử  dụng, thời gian lao động không bị  kéo quá 8 tiếng một ngày   hay 48 tiếng một tuần theo bộ  luật Lao Động. Gạt bỏ  đi mục đích và tính  chất của tư  bản thì có thể  áp dụng phương pháp sản xuất giá trị  thặng dư  tương đối và biến tấu của nó – giá trị  thặng dư  siêu ngạch vào nền kinh tế  Việt Nam. 
  15. Trước đổi mới, các doanh nghiệp Việt Nam đều là doanh nghiệp nhà  nước được nhà nước bao cấp hoàn toàn. Sản phẩm làm ra theo định lượng  của nhà nước, thậm chí là còn không cần biết đến việc sản phẩm đó tạo ra   có đúng theo nhu cầu của thị trường hay không, vì thế mà nền kinh tế trì trệ.  Sau đổi mới năm 1986, các doanh nghiệp nhà nước không còn hoàn toàn   được nhà nước bao cấp nữa mà bắt đầu phải tự  chủ, bước vào nền kinh tế  thị  trường, đồng thời, các doanh nghiệp tư  nhân đầu tiên cũng ra đời. Tiếp  đến, sự tràn vào của hàng hóa các nước khác, đặc biệt là hàng Trung Quốc giá   rẻ đã tạo nên một áp lực lớn đối với các doanh nghiệp trong nước. Áp lực này   buộc họ phải đổi mới công nghệ nhằm tăng sức cạnh tranh để có thể tồn tại  và đứng vững trong nền kinh tế thị trường.  Để tạo ra được nhiều giá trị thặng dư, các doanh nghiệp bắt đầu chuyên   môn hóa trong việc sản xuất sản phẩm, phân chia công đoạn chi tiết, đầu tư  vào việc mua lại công nghệ  và máy móc, áp dụng các phương thức quản lí   mới. Ban đầu, với lượng kinh phí còn hạn hẹp, họ mua lại những công nghệ  và máy móc cũ đã lỗi thời ở các nước phát triển với giá thành rẻ, rồi dần dần   chuyển đổi sang những công nghệ  mới hiện đại hơn. Đồng thời, khi Việt   Nam còn chưa có nguồn nhân lực tri thức cao, các chuyên gia nước ngoài cũng   được mời về để chuyển giao công nghệ.  Sau khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với các  đối thủ  mới (các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia có tiềm lực tài chính,  công nghệ, kinh nghiệm và năng lực cạnh tranh cao), phải cạnh tranh quyết  liệt trong điều kiện mới. Vì vậy, việc đổi mới công nghệ  và đào tạo nguồn   nhân lực lại càng trở  thành nhu cầu cấp bách khi cạnh tranh để  tạo ra nhiều  giá trị thặng dư hơn.  2. Kết quả đạt được  Để  tạo ra giá trị  thặng dư  nên các doanh nghiệp đã từng bước đầu tư  công nghệ  vào sản xuất do đó sản phẩm tạo ra ngày càng nhiều, chất lượng  được nâng cao phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu nước   ngoài. KT tư nhân góp phần quan trọng trong PT KT. Có thể nói, điều kiện điểm xuất phát nền kinh tế Việt Nam thấp, nhưng   qua khoảng thời gian sau đổi mới, áp dụng nền kinh tế thị trường định hướng   xã hội chủ  nghĩa đã có rất nhiều chuyển biến tích cực. Tiếp tục vận dụng  những phương pháp sản xuất giá trị  thặng dư, đồng thời học tập từ  những   nước phát triển, các doanh nghiệp của nước ta có thể  đẩy mạnh kích thích  sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, sử  dụng kỹ  thuật mới, cải tiến tổ  chức quản lí, tiết kiệm chi phí sản xuất nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,  giúp đất nước thoát khỏi tình trạng nước nghèo, vững mạnh hơn và giàu đẹp  hơn.
  16. 3. Hạn chế Công nghệ VN tuy đã được đầu tư nhiều nhưng vẫn còn lạc hâu so với  các nước trên thế giới. Nguyên nhân là máy móc thiết bị hiện đại chi phí lớn   nên các doanh nghiệp thường mua máy móc thiết bị cũ. Trình độ theo kịp khoa học kỹ thuật của nhân lực VN còn hạn chế. Cơ chế chính sách PT Kinh tế nhưng chưa đảm bảo giữ gìn môi trường. 4. Giải pháp Một, các doanh nghiệp trong nước cần cố gắng hơn nữa trong vi ệc thay   đổi công nghệ. Hiện nay có nhiều doanh nghiệp trong nước đã tiến hành hợp   tác với các doanh nghiệp nước ngoài trên cơ sở hai bên cùng có lợi, vừa giúp  doanh nghiệp nước ngoài làm quen nhanh chóng hơn với nền kinh tế  trong   nước, vừa tạo điều kiện giúp doanh nghiệp trong nước có được những công   nghệ tiên tiến để phát triển sản xuất.  Hai, nâng cao chất lượng dạy và học, giảm dần khoảng cách giữa lý  thuyết và thực tế là vô cùng cần thiết để tránh hiện trạng có cầu mà không có  cung như hiện nay.  Ba, trong nền KT thị trường VN phải chấp nhận bóc lột giá trị thặng dư  nhưng phải  đảm  bảo  ở  mức sao cho mức lương trả  cho người lao  động  không được dưới giá trị thực của nó. Bốn, hỗ  trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sao cho bỏ  ra ít vốn   nhất nhưng giá trị bán ra đạt KQ cao. Năm, phân phối lại thu nhập quốc dân bằng cách lấy của người giàu chia  cho người nghèo bằng cách thông qua việc đánh thuế  hợp lý cho từng đối  tượng, từng loại hình doanh nghiệp sẽ đảm bảo công bằng hơn trong phúc lợi  XH. Sáu, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và chủ doanh  nghiệp bằng Luật và các chế  tài cụ  thể để  đảm bảo công bằng, minh bạch,  bền vững. Trong nền KT thị  trường hàng hóa nhiều thành phần của nước ta hiện   nay các doanh nghiệp tư  nhân không phải hoàn toàn áp dụng quy luật giá trị  thặng dư giống CNTB và cũng không phải hoàn toàn chịu sự ảnh hưởng của   quy luật giá trị thặng dư. Chính vì thế sự thừa nhận tiến bộ, hợp pháp của KT   tư nhân và khuyến khích PT là tạo điều kiện PT XH chứ không phải khuyến  khích bóc lột giá trị thặng dư. Đó là cách vậy dụng sáng tạo CN Mác – Lenin  trong điều kiện KT nước ta hiện nay. 
  17. Câu 4: Trình bày đặc điểm kinh tế cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH ?   Liên hệ sự vận dụng của Đảng ta.  Đặc điểm kinh tế cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH là sự tồn tại  khách quan của nền kinh tế  nhiều thành phần, tương  ứng với các giai cấp,   tầng lớp xã hội khác nhau nhưng vị  trí, cơ  cấu, tính chất của các giai cấp,   tầng lớp này có sự biến đổi sâu sắc.  Liên hệ sự vận dụng của Đảng ta ­ Xuất phát điểm của nền kinh tế Việt Nam  là nền kinh tế kém phát  triển trải qua thời kỳ  chiến tranh, kết cấu hạ  tầng và vật chất của nước ta  còn  ở  trình độ  thấp, chưa đáp  ứng được yêu cầu phát triển, trình độ  công   nghệ  lạc hậu, máy móc cũ kỹ, quy mô sản xuất nhỏ  bé, năng suất, chất   lượng, hiệu quả sản xuất còn thấp chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng. ­ Trong thời kỳ bao cấp: đây là thời kỳ  thực hiện chế  độ  quản lý tập  trung quan liêu bao lấy kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể là chủ yếu điều  nàyđã kìm hãm sự  phát triển của tiến bộ  khoa học – kỹ thuật. Chế độ  công  hữu được thiết lập một cách nóng vội không những ko tạo ra được động lực   mà còn kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Sở hữu tư  nhân không được   thừa nhận, không phát huy được sự  sáng tạo, trí tuệ  của nhân dân điều này   tạo ra nhiều lực cản đối với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế ­ xã hội. Chế độ phân phối và bình quân đã không gắn được kết quả sản xuất với   năng suất lao động và hiệu quả  lao động, triệt tiêu động lực của người lao   động. Phân phối thời bao cấp cũng tạo nên sự  nghịch lý trong xã hội: Người   có nhu cầu chưa hẳn được phân phối, còn người được phân phối chưa hẳn có  nhu cầu; không khai thác được vai trò, sức mạnh của quan hệ hàng hóa – tiền  tệ để phát triển đất nước. Chính vì vậy, việc đối mới cơ chế quản lý kinh tế  trở thành nhu cầu cấp thiết cần thực hiện ngay. Đại hội VI năm 1986 đã khẳng định rõ tính tất yếu khách quan của sự  tồn tại nền kinh tế  nhiều thành phần. Đại hội cho rằng: “Xuất phát từ  sự  đánh giá những tiềm năng tuy phân tán nhưng rất quan trọng trong nhân dân   cả về sức lao động, kỹ  thuật, tiền vốn, khả năng tạo việc làm, chúng ta chủ  trương : đi đôi với việc phát triển kinh tế  quốc doanh, kinh tế  tập thể, tăng  cường tích lũy tập trung của Nhà nước và tranh thủ  vốn ngoài nước, cần có   chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác”. Đồng   thời chỉ ra: “ở nước ta các thành phần đó là: kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm   khu vực quốc doanh và khu vực tập thểcùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn  với thành phần đó. Các thành phần kinh tế  khác gồm: Kinh tế  tiểu sản xuất   hàng hóa; kinh tế  tư  bản tư nhân; kinh tế  tư  bản nhà nước dưới nhiều hình  thức mà hình thức cao là công tư  hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự  cấp, tự  túc 
  18. trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số  ở  Tây Nguyên và các vùng núi  cao khác. Kế  thừa và phát huy quan điểm về  nền kinh tế  nhiều thành phần của   Đại hội VI, Đại hội VII nêu rõ: Trong nền kinh tế thị trường với quyền tự  do kinh doanh được pháp luật bảo đảm từ  ba loại hình sở  hữu cơ  bản (Sở  hữu toàn dân, sở  hữu tập thể, sở  hữu tư  nhân), sẽ  hình thành nhiều thành   phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng. Kinh tế  quốc doanh được cũng cố  và phát triển trong những ngành và  lĩnh vực then chốt, nắm những doanh nghiệp trọng yếu, đảm đương những   hoạt động mà các thành phần kinh tế  khác không có điều kiện đầu tư  kinh  doanh. Khu vực kinh doanh phải được sắp xếp lại, đổi mới công nghệ  và tổ  chức quản lý, kinh doanh có hiệu quả, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh  tế khác, thực hiện vai trò chủ đạo và chức năng của một công cụ điều tiết vĩ   mộ của nhà nước. Kinh tế  tập thể, với hình thức phổ  biến là HTX, đổi mới tổ  chức và  phương thức hoạt động, phát triển rộng rãi và đa dạng trọng các ngành, nghề  với quy mô và mức độ tập thể hóa khác nhau, trên cơ sở tự nguyện góp vốn,  góp sức của những người lao động. Tổ  chức và hoạt động của HTX không  phụ thuộc vào địa giới hành chính. Một gia đình có thể tham gia các HTX khác  nhau và có quyền rút ra khỏi HTX theo điều lệ. Kinh tế cá thể được khuyến khích phát triển trong các ngành nghề  ở cả  thành thị và nông thôn, không bị hạn chế việc mở rộng kinh doanh, có thể tồn   tại độc lập, tham gia các loại hình HTX, liên kết với các doanh nghiệp lớn   bằng nhiều hình thức. Kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa   bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm. Kinh tế  gia đinh không phải là một thành phần kinh tế  độc lập nhưng  được khuyến khích phát triển mạnh. Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có thể liên kết thành các  liên hiệp hoặc tập đoàn kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện trên cơ sở hiệu  quả kinh tế và cùng có lợi; Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách: kinh tế  nhiều thành phần, không phân biệt, đối xử, không tước đoạt tài sản hợp pháp,  không gò ép tập thể hóa tư liệu sản xuất, không áp đặt hình thức kinh doanh,   khuyến khích các hoạt động có lợi quốc kế dân sinh. Tại đại hội VIII tiếp tục khẳng  định: Thực hiện nhất quán lâu dài  chính sách phát triển nền kinh tế  hàng hóa nhiều thành phần, lấy việc giải  phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài  cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải   thiện đời sống của nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích 
  19. phát triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh… thực hiện  các chủ trương chính sách sau đối với các thành phần kinh tế: Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước để  làm tốt  vai trò chủ  đạo, tập trung nguồn lực để  phát triển kinh tế  nhà nước trong  những ngành, những lĩnh vực trọng yếu như: kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội,  hệ  thống tài chính,…; đổi mới và tăng cường hoạt động kinh tế  nhà nước  trong lĩnh vực phân phối lưu thông. Phát huy vai trò trung tâm kinh tế  , khoa   học – công nghệ, văn hóa – xã hội của doanh nghiệp nhà nước trong nông,   lâm, ngư nghiệp, nhất là ở  vùng miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc ít  người. Triển khai tích cực và vững chắc việc cổ  phần hóa doanh nghiệp nhà  nước để huy động thêm vốn, tạo điều kiện thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có   hiệu quả. Kinh tế hợp tác mà nòng cốt là HTX  được chú trọng phát triển với nhiều  hình thức đa dạng, từ thấp đến cao, từ tổ  nhóm hợp tác đến hợp tác xã; tuân   thủ nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lới, quản lý dân chủ. Kinh tế  tư  bản nhà nước giữ  vai trò quan trọng trong việc động viên  tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý,… Kinh tế  cá thể, tiểu chủ: có vị  trí, vai trò quan trọng, lâu dài. Giúp đỡ  kinh tế cá thể, tiểu chủ giải quyết các khó khăn về vốn, về khoa học và công  nghệ,… Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích đầu tư vào sản xuất, yên tâm  làm ăn lâu dài,… Đại hội IX cũng chỉ rõ: 6 thành phần kinh tế  ở nước ta trong giai đoạn  này bao gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh   tế  tư  bản tư  nhân, kinh tế  tư  bản nhà nước và kinh tế  có vốn đầu tư  nước   ngoài. Trong Đại hội X, Đảng ta xác định còn 5 thành phần kinh tế: Kinh tế  nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế  có vốn đầu tư nước ngoài. Đại hội XI: chỉ  rõ 4 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế  tập  thể, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đại hội thứ XII nhấn mạnh: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội  chủ nghĩa ở Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến  bộ phù hợp với trình độ phát   triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở  hữu, nhiều thành phần   kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò quan trọng của nên kinh tế; các   chủ  thể  thuộc các thành phần kinh tế  bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo   pháp luật.
  20. Nghị  quyết Hội nghị TW lần thứ 5 khóa 12 khẳng định: Kinh tế tư nhân  là một động lực quan trọng để  phát triển kinh tế. Kinh tế  nhà nước, kinh tế  tập thể  cùng với kinh tế  tư  nhân là nòng cốt để  phát triển nền kinh tế  độc  lập, tự  chủ. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để  kinh tế  tư  nhân phát  triển nhanh, bền vững, đa dạng với tốc độ  tăng trưởng cao cả  về  số  lượng,   quy mô, chất lượng và tỉ trọng đóng góp trong GDP. Khuyến khích kinh tế tư  nhân tham gia góp vốn, mua cổ  phần của các doanh nghiệp nhà nước khi cổ  phần hoá hoặc Nhà nước thoái vốn. Thúc đẩy phát triển mọi hình thức liên  kết sản xuất, kinh doanh, cung cấp hàng hoá, dịch vụ  theo mạng sản xuất,   chuỗi giá trị thị trường giữa kinh tế tư nhân với kinh tế nhà nước, kinh tế tập   thể và các doanh nghiệp có vốn đầu tư  nước ngoài nhằm tiếp nhận, chuyển  giao, tạo sự lan toả rộng rãi về công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại, nâng  cao giá trị gia tăng và mở rộng thị trường tiêu thụ… Như vậy, kế thừa quan điểm của chũ nghĩa Mac­Lenin, tư tưởng Hồ Chí  Minh về  các thành phần kinh tế  trong thời kì quá độ  lên CNXH, Đảng ta đã   vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh đất nước, trên cơ  sở  phân tích đặc điểm  của từng bước quá độ. Từ  đó qua từng kỳ  đại hội, không những nhất quá   thực hiện chính sách kinh tế  nhiều thành phần, mà còn xác định rõ các thành  phần kinh tế, tạo cơ sở cho hoạch định và thực thi  đúng đắn các chính sách   với các thành phần kinh tế. Câu 5: Những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa   xã hội ở Việt Nam: Để thực hiện đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa cộng sản theo Chủ nghĩa  Mac­Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, muốn vậy trong thời kỳ quá độ  chúng ta   cần phải thực hiện những nhiệm vụ kinh tế cơ bản sau: ­ Thực hiện phát triển lực lượng sản xuất: Trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta xác  định xây dựng chủ nghĩa xã hội là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,   công bằng, văn minh; do nhân dân lao động làm chủ; có nền kinh tế phát triển   cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ  sản xuất tiến bộ  phù   hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc  sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc   trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng   phát triển; có Nhà nước phát quyền xã hội chủ  nghĩa của nhân dân, do nhân   dân, vì nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác   với các nước trên thế giới. Về nhiệm vụ phát triển lực lượng sản xuất, Đảng ta xác định: Phát triển  lực lượng sản xuất thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc   dân. Phát triển kinh tế  là nhiệm vụ  trung tâm; thực hiện công nghiệp hóa,  hiện  đại   hóa  đất   nước  gắn  với  phát  triển  kinh tế   tri  thức  và  bảo  vệ   tài 

 

TOP Download

Tài liệu đề nghị cho bạn:

popupslide2=3Array ( )