Tài liệu thi Triết (Có đáp án)
Nội dung tài liệu trình bày 10 câu hỏi về triết học và đưa ra đáp án cụ thể giúp các bạn ôn tập, củng cố kiến thức để làm bài thi thật tốt. Mời các bạn tham khảo!
Tóm tắt nội dung tài liệu
- Câu 1: Quan điểm toàn diện là gì? Đồng chí hãy vận dụng quan điểm toàn
diện để đề xuất giải pháp nhằm “ phòng và chống suy thoái về tư tưởng,
chính trị, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa tại cơ quan”
Quan điểm toàn diện là quan điểm mà khi nghiên cứu sự vật phải xem
xét tất cả các mặt, các yếu tố tạo thành nó và các mối liên hệ giữa sự vật ấy
và sự vật, hiện tượng khác.
Quan điểm toàn diện yêu cầu phải nhìn nhận sự vật như 1 chỉnh thể,
phải phân biệt giữa cái chính và cái phụ, đánh giá đúng vị trí và vai trò của
từng mối liên hệ, tránh xem xét 1 cách đồng đều, bình quân.
Trong hoạt động thực tiễn, quan điểm toàn diện đòi hỏi phải sử dụng
đồng bộ nhiều biện pháp, nhiều phương tiện khác nhau để tác động nhằm
thay đổi sự vật.
Cấn phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét và giải quyết mọi
vấn đề do thực tiễn đặt ra, phải chú ý đúng mức đến hoàn cảnh lịch sử đã
làm phát sinh vấn đề, bối cảnh hiện thực khách quan và chủ quan.
Nghiêm khắc phê phán quan điểm phiến diện, chủ nghĩa chiết trung,
thuật ngụy biện khi quán triệt quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ
thể.
Liên hệ các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối
sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa tại cơ quan, đơn vị:
Song song với 14 năm hình thành và phát triển của huyện Đam Rông,
công tác đoàn và phong trào thanh thiếu nhi huyện Đam Rông đã đạt được
nhiều kết quả quan trọng. Đoàn viên, thanh niên trên địa bàn huyện tích cực
tham gia xung kích tình nguyện vì cộng đồng, hưởng ứng hiến máu tình
nguyện, công tác đền ơn đáp nghĩa... Tích cực phối hợp tổ chức các hoạt
động tư vấn, hỗ trợ thanh niên tiếp cận, sử dụng nguồn vốn vay ưu đãi phát
triển kinh tế, xóa đỏi giảm nghèo. Tuy nhiên, trong thời kì quá độ lên CNXH
và bị ảnh hường tiêu cực từ cơ chế thị trường, các biểu hiện suy thoái về tư
tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa đã xuất hiện
tại một số cơ sở đoàn và trong một bộ phận đoàn viên thanh niên.
Suy thoái về tư tưởng chính trị:
Phai nhạt về lý tưởng, hoài nghi về chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội,
đường lối cách mạng của Đảng; không thường xuyên trau dồi đạo đức cách
mạng, không có lối sống trong sáng, chính trực.
Ngại học tập lý luận chính trị, ngại tham gia các tổ chức đoàn thể, các
phong trào thi đua, phong trào cách mạng; không báo cáo đúng sự thật, không
trung thực, thẳng thắn trong phê bình và tự phê bình, thiếu dân chủ hoặc dân
chủ hình thức, giả tạo; sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy
- sai không đấu tranh; không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt
của Đảng
Nói và làm không nhất quán, không đúng đường lối, quan điểm của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, phụ họa theo các quan điểm lệch lạc; xa rời
mục tiêu, lý tưởng của Đảng,
Quan liêu, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao; xa dân, lãnh
đạm, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc và yêu cầu, đòi hỏi chính đáng
của nhân dân.
Thiếu gương mẫu trong việc chấp hành chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của cơ quan, đơn vị và đời sống sinh
hoạt hằng ngày.
Suy thoái về đạo đức, lối sống:
Chủ nghĩa cá nhân, lối sống vị kỷ, vụ lợi, buông thả, hưởng thụ, thiếu
lý tưởng, thiếu ý chí phấn đấu; hành động cơ hội, vì lợi ích cá nhân, đua đòi...
Cực đoan, cơ hội, vụ lợi, thực dụng; dĩ hòa vi quý, a dua, nịnh bợ, lấy
lòng lãnh đạo; bệnh thành tích, bè phái, cục bộ địa phương, lợi ích nhóm, mất
đoàn kết; lối sống xa hoa, hưởng lạc.
Đạo đức của người đảng viên, cán bộ đoàn và đạo đức nghề nghiệp sa
sút, tham nhũng, hối lộ, bòn rút của công, lãng phí, quan liêu, chạy chức, chạy
quyền, chạy chỉ tiêu, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng.
Có các hành vi vi phạm đạo đức, thuần phong, mỹ tục trong quan hệ
gia đình và quan hệ giữa cá nhân với xã hội như: gia trưởng, vũ phu, bất hiếu,
mê tín, dị đoan
Có hành vi vi phạm trật tự, an toàn xã hội; lối sống vô tổ chức, vô kỷ
luật, tùy tiện vô nguyên tắc.
Các biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa:
Tự diễn biến và tự chuyển hóa trong cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh
niên được biểu hiện như sau:
Suy giảm về nhận thức, về tư tưởng chính trị, ngày càng xa rời mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội, xa rời lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, xa rời Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xa rời
đường lối của Đảng. Thể hiện ở việc phản bác, phủ định “sạch trơn” học
thuyết Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội do Đảng lãnh đạo, nhân dân thực hiện.
Suy giảm niềm tin vào thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, thắng lợi của
công cuộc đổi mới đất nước vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thể hiện
ở việc ca ngợi, tán dương hình mẫu chủ nghĩa tư bản, tự do tư sản, đồng thời
xuyên tạc, bịa đặt, áp đặt ý chí chủ quan khi đánh giá về Đảng, Nhà nước và
chế độ xã hội nhân dân ta đang xây dựng.
Suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành
của Nhà nước, phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên, đoàn
- viên nhất là cán bộ chủ chốt. Thể hiện bằng thái độ bất mãn, dao động, cực
đoan trước những vấn đề của xã hội, thực trạng của đất nước, về vai trò lãnh
đạo của Đảng, tương lai của dân tộc. Trong đấu tranh phê bình và tự phê bình
thể hiện sự cực đoan, thái quá hoặc lợi dụng các diễn đàn để bày tỏ thái độ
“đấu tranh” một cách bất mãn, chống đối và trục lợi cho bản thân
Suy giảm về phẩm chất đạo đức, lối sống, ngày càng xa rời những
phẩm chất, chuẩn mực đạo đức, lối sống XHCN, trượt dần sang đạo đức, lối
sống tư sản, quay về với những thói hư, tật xấu của đạo đức, lối sống phong
kiến. Thể hiện thái độ “ba phải”, gió chiều nào theo chiều đó, không có chính
kiến, thờ ơ, im lặng trước những vấn đề ở cơ quan và của đất nước; chạy
chức, chạy quyền, tham ô tham nhũng, đề cao tư lợi, đề cao lợi ích nhóm, làm
giàu một cách bất chính; lối sống cục bộ địa phương, thực dụng, buông thả,
sa đọa, chia rẽ làm mất đoàn kết nội bộ; phong cách làm việc cửa quyền,
hách dịch, tự mãn, nói nhiều làm ít, thiếu sự gắn bó với tập thể, cộng đồng.
Nguyên nhân:
a) Nguyên nhân khách quan
Do tính chất phức tạp của thời kỳ quá độ và tác động tiêu cực của cơ
chế kinh tế thị trường. Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa
phong kiến, đất nước trải qua nhiều năm chiến tranh, hậu quả để lại nặng
nề. Vì vậy, việc khắc phục những dấu vết của xã hội cũ, trong đó có đạo đức
phong kiến, đạo đức tư sản đòi hỏi phải có thời gian, không thể chủ quan,
nóng vội. Tại Đại hội XI, Đảng ta xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam "là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp
giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài
với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen".
Tính phức tạp này là một trong những nguyên nhân khách quan dẫn đến tình
trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ đảng viên, đoàn viên thanh niên hiện nay.
Do sự tác động của đạo đức, lối sống, hưởng thụ tư sản du nhập vào
nước ta trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và công nghệ thông
tin.
Do sự chống phá của các thế lực thù địch. Các thế lực thù địch, phản
động chống phá quyết liệt trên mặt trận tư tưởng, chính trị; tuyên truyền, ca
ngợi lối sống ích kỷ, hưởng thụ, thực dụng trong cán bộ lãnh đạo và gia đình
họ, đảng viên, đoàn viên thanh niên, đây là một trong những biện pháp thực
hiện "diễn biến hòa bình" của chúng.
b) Nguyên nhân chủ quan
Do chưa làm tốt công tác chính trị, tư tưởng, công tác tuyên truyền,
giáo dục. Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa cao; công tác quản lý
đảng viên, đoàn viên chưa chặt chẽ; sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung
- sinh hoạt nhìn chung còn nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu; động cơ
phấn đấu vào Đảng của một số người có biểu hiện lệch lạc; kỷ luật, kỷ
cương ở nhiều tổ chức đảng không nghiêm;... Đặc biệt, tinh thần trách
nhiệm, ý thức tự giác, tính chiến đấu, tính đảng ở nhiều cán bộ, đảng viên
giảm sút.
Do chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc vai trò nền tảng của đạo đức
trong ổn định, phát triển xã hội và tác động của cơ chế kinh tế thị trường đến
đạo đức xã hội.
Giải pháp
Một là, đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt sâu sắc trong đội ngũ cán
bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên về mục đích, ý nghĩa của việc thường
xuyên học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đây
là giải pháp quan trọng hàng đầu, nhằm nâng cao trình độ nhận thức chính trị,
bản lĩnh vững vàng, năng lực tư duy toàn diện của cán bộ, đảng viên, đoàn
viên thanh niên đủ sức tự giải đáp và tự đề kháng mọi sự cám dỗ của cuộc
sống vật chất đơn thuần, không rơi vào tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị,
chủ nghĩa cá nhân, đạo đức giả, lối sống thực dụng. Đây cũng là cơ sở để xây
dựng nền tảng đạo đức, tinh thần, văn hóa của xã hội, tạo môi trường tốt để
ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức lối
sống của cán bộ, đảng viên hiện nay.
Hai là, thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI gắn với đẩy
mạnh việc làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; trọng tâm là công tác
giáo dục chính trị tư tưởng, công tác tổ chức, cán bộ và thực hiện các nguyên
tắc tổ chức sinh hoạt đảng, giữ gìn kỷ luật, kỷ cương. Tăng cường công tác
quản lý đảng viên, bảo vệ chính trị nội bộ. Xây dựng tiêu chuẩn các chức
danh cán bộ và các tiêu chí đánh giá cán bộ, lấy hiệu quả hoàn thành nhiệm
vụ để đánh giá cán bộ. Với cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt, ngoài việc phải
gương mẫu thực hiện, còn phải trực tiếp chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc thực
hiện ở cơ quan, đơn vị, cơ sở đoàn do mình phụ trách. Theo dõi, kiểm tra việc
khắc phục, sửa chữa khuyết điểm sau kết luận thanh tra, kiểm tra; chỉ đạo xử
lý nghiêm các cá nhân và đảng viên vi phạm.
Ba là, thực hiện nghiêm túc công tác tự phê bình và phê bình. Tự phê
bình và phê bình cần có ý chí và quyết tâm cao, dám nhìn thẳng vào sự thật,
đánh giá sát đúng sự thật, không nể nang, né tránh trước những vấn đề nhạy
cảm về đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên. Đây là việc làm đụng chạm
đến uy tín, danh dự, lòng tự trọng của cá nhân. Nhưng nếu sợ mất lòng, “dễ
người, dễ ta”, dĩ hòa vi quý thì tự phê bình và phê bình sẽ không phát huy tác
dụng, thậm chí mất thời gian và công sức mà không mang lại hiệu quả như
mong muốn.
Tự phê bình và phê bình là biện pháp tốt nhất để phát huy ưu điểm và
sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm, ngăn chặn "tự diễn biến", "tự chuyển
- hóa" trong nội bộ; chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá
nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, lợi ích nhóm, đặc quyền, đặc lợi,
nói không đi đôi với làm, nói nhiều, làm ít.
Khi tự phê bình, phê bình cần khắc phục biểu hiện “dĩ hòa vi quý”,
đánh giá nhận định chủ quan, chung chung, thiếu cụ thể. Cần nhận diện đầy
đủ biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống; chỉ rõ từng bộ
phận, từng đối tượng nào suy thoái, suy thoái mặt nào, ở mức độ nào để có
biện pháp khắc phục hiệu quả. Cũng cần khắc phục tâm lý chủ quan cho
rằng chi bộ, đảng bộ được cấp ủy cấp trên đánh giá, công nhận đạt trong
sạch vững mạnh, nên không có sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối
sống.
Khi tiến hành tự phê bình, phê bình, phải có sự chuẩn bị chu đáo, chặt
chẽ, vừa đảm bảo nguyên tắc, quy trình, vừa linh hoạt, mềm dẻo về phương
pháp, cách thức. Quá trình tự phê bình, phê bình cần đảm bảo dân chủ, nghiêm
túc, thẳng thắn với tinh thần đấu xây dựng vì tình yêu thương đồng chí lẫn
nhau; bí thư cấp ủy và thủ trưởng cơ quan đơn vị phải trực tiếp lãnh đạo, tổ
chức thực hiện và nêu gương tự phê bình trước cấp ủy và chi bộ. Đây là nhân
tố quan trọng quyết định chất lượng tự phê bình và phê bình.
Bốn là, thực hiện tốt cơ chế kiểm tra, giám sát của nhân dân, phản ánh
của của báo chí, dư luận xã hội vể phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ,
đảng viên. Khi phát hiện cán bộ, đảng viên vi phạm, sai phạm về đạo đức,
lối sống, phải xử lý kịp thời, nghiêm minh quy định của Đảng và pháp luật
của Nhà nước.
Câu 2: Giai cấp Công nhân là gì? Có sứ mệnh lịch sử gì? Vì sao có sứ
mệnh LS đó? Liên hệ giai cấp công nhân Việt Nam.
Giai cấp công nhân: là sản phẩm và là chủ thể của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đại biểu cho phương thức sản xuất mang tính xã
hội hóa ngày càng cao và là lực lượng đi đầu trong cuộc đấu tranh vì tiến bộ
xã hội; là giai cấp có sứ mệnh lịch sử xóa bỏ chế độ TBCN, xây dựng thành
công CNXH và CNCS trên toàn thế giới
Nội dung sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân : là
người tổ chức lãnh đạo xã hội thông qua đội tiền phong của mình là đảng
cộng sản; đấu tranh giải phóng mình và giải phóng toàn xã hội khỏi mọi sự
áp bức, bất công; xóa bỏ CNTB, xây dựng CNXH và CSCN. Sứ mệnh này dc
thể hiện ở 3 nội dung
Nội dung kinh tế: giai cấp công nhân dù ở chế độ chính trị nào, cũng là
chủ thể của quá trình sản xuất vật chất bằng phương thức sản xuất công
nghiệp mang tính chất xã hội hóa cao, sản xuất ngày càng nhiều của cải, đáp
- ứng những nhu cầu ngày càng tăng của con người. Qua đó, họ tạo ra tiền đề
vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của xã hội mới.
Nội dung kinh tế này là yếu tố sâu xa nhất khẳng định sự cần thiết và
quy mô phạm vi toàn thế giới về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đối
với quá trình phát triển của văn minh nhân loại. Thực hiện đầy đủ và thành
công nội dung này cũng là điều kiện vật chất để chủ nghĩa xã hội chiến
thắng chủ nghĩa tư bản.
Nội dung chính trị xã hội: Giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao
động, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, tiến hành cách mạng chính trị lật
đổ chế độ tư bản chủ nghĩa với tư cách là một chế độ chính trị còn áp bức,
bất công, để xác lập, bảo vệ và phát triển chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa
với mục tiêu tối thượng là giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột và được
tạo điều kiện phát triển toàn diện.
Giai cấp công nhân giải quyết đúng đắn vấn đề chính trị xã hội đặt ra
trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa như liên minh giai cấp, tầng lớp,
đoàn kết các dân tộc, xây dựng xã hội mới, con người mới, v.v.
Nội dung văn hóa tư tưởng: giai cấp công nhân trong tiến trình cách
mạng của mình xác lập hệ giá trị, tư tưởng của giai cấp công nhân để thay
thế cho hệ giá trị, tư tưởng tư sản và “những hệ tư tưởng cổ truyền” lạc hậu
khác. Thực chất đó là một cuộc cách mạng về văn hóa, tư tưởng bao gồm cải
tạo cái cũ, xây dựng cái mới trong sự kế thừa những tinh hoa của và giá trị
truyền thống của văn hóa dân tộc.
Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa và con người được phát triển tự
do và toàn diện trong xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là những mục tiêu
hàng đầu của cuộc cách mạng này.
Sở dĩ giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử này là do các điều kiện
khách quan và chủ quan quy định:
* Về điều kiện khách quan:
Thứ nhất, do địa vị kinh tế xã hội của giai cấp công nhân:
Là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất có trình độ XH hóa cao và
phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại.
Trong quá trình sản xuất vật chất trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ
công nghiệp hiện đại, họ là lực lượng tạo ra phần lớn của cải cho xã hội, lao
động thặng dư của họ là nguồn gốc chủ yếu đem lại sự giàu có và thúc đẩy
xã hội phát triển.
GCCN bị bóc lột giá trị thặng dư trong quá trình làm thuê cho nhà tư
bản. Do đó, lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân đối lập trực tiếp với lợi ích
cơ bản của giai cấp tư sản.
- =>Vì vậy, giai cấp công nhân phải đấu tranh nhằm xóa bỏ sự áp bức,
bóc lột của giai cấp tư sản , xây dựng một xã hội mới mà ở đó giai cấp công
nhân và nhân dân lao động được giải phóng, được phát triển toàn diện, một xã
hội nhân văn, tiến bộ và phát triển bền vững.
Thứ hai, do đặc điểm chính trị xã hội của giai cấp công nhân quy định.
Với tư cách chủ thể trực tiếp của quá trình sản xuất công nghiệp hiện
đại, trình độ chuyên môn, kỹ thuật, trình độ học vấn và ý thức chính trị của
giai cấp công nhân ngày càng được nâng cao. Xét về góc độ chính trị, các cuộc
đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ đã tôi luyện và cung cấp cho GCCN những tri
thức chính trị xã hội cần thiết để giai cấp công nhân trở thành giai cấp tiên
tiến trong xã hội.
Chính môi trường sản xuất công nghiệp hiện đại đã tôi luyện cho giai
cấp công nhân tính tổ chức kỹ luật cao và tác phong công nghiệp hiện đại.
Giai cấp công nhân có hệ tư tưởng độc lập, được vũ trang bởi lý luận
tiền phong là chủ nghĩa Mác Lê nin và có chính đảng của mình là đảng cộng
sản lãnh đạo. Do đó, họ có khả năng tổ chức, lãnh đạo, đoàn kết chính giai
cấp mình và đồng thời đoàn kết với các GC, tầng lớp khác trong cuộc dấu
tranh vì mục tiêu chung: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội.
Tinh thần triệt để cách mạng thể hiện ở hai điểm: Một là, phương thức
đấu tranh: xóa bỏ tận gốc chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất với
tư cách là chế độ áp bức, bóc lột. Hai là, ở mục têu cuối cùng: phải giải
phóng toàn bộ xã hội khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột.
Thứ ba: Bản thân các mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản khách
quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Xét về mặt kinh tế,
Mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và quá
trình vận động của nó. Đó là xung đột giữa tính xã hội hóa ngày càng cao của
LLSX với tnh1 chất nhân hóa của QHSX tư bản chủ nghĩa. Đây là mâu
thuẫn cơ bản của Chủ nghĩa tư bản tất yếu khách quan đặt ra nhu cầu thay
đổi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa mở đường cho LLSX phát triển. Đây
là quá trình khách quan và được quá trình sản xuất hiện đại vạch ra.
Xã hội hiện đại với xu thế xã hội hóa, dân chủ hóa mạnh mẽ hiện nay
cũng đang làm chín muồi những tiền đề khách quan cho sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân.Nhìn chung, không chỉ chủ nghĩa tư bản mà cả quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản đều cần đến những tiền đề
vật chất từ lực lượng sản xuất ở trình độ xã hội hóa cao. C.Mac coi đó là "
tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết.
- Xét về mặt chính trị xã hội, đó là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân
với giai cấp tư sản. Biểu hiện:
Chế độ bóc lột giá trị thặng dư đã làm cho lợi ích cơ bản của GCCN và
GCTS đối lập nhau. Mâu thuẫn này không thể điều hòa và đó là động lực
chính của cuộc đấu tranh giai cấp hiện đại. Giải quyết mâu thuẩn này là tất
yếu khách quan nhằm xóa bỏ cơ sở chế độ người bóc lột người cuối cùng
trong lịch sử. Muốn thực hiện điều dó phải xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu với mục tiêu giải phóng người lao
động. Đối tượng xóa bỏ ở đây là chế độ sở hữu tư bản tư nhân tư bản chủ
nghĩa với tư cách là nguồn gốc sinh ra áp bức, bóc lột.
Tuy nhiên, xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân cần được hiểu là một quá trình
“lịch sử tự nhiên” chứ không thể duy ý chí. Xét đến cùng, sự nghiệp này
cũng chịu sự quy định của trình độ lực lượng sản xuất. Nhưng muốn xóa bỏ
nó thì phải xóa bỏ chế độ chính trị là cái đang bảo vệ quan hệ sản xuất ấy.
Lật đổ chế độ tư sản, nhà nước của giai cấp tư sản, xác lập nhà nước
của giai cấp công nhân là tất yếu trong quá trình cách mạng kinh tế.
Như vậy, cả hai mặt của mâu thuẫn cơ bản này không thể giải quyết
triệt để trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản và tất yếu dẫn đến cách mạng
xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân tiến hành dưới sự lãnh đạo và tổ chức
của chính đảng của giai cấp công nhân.
=>Đó là sự quy định khách quan cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân.
* Về điều kiện chủ quan:
Sự phát triển về số lượng của giai cấp công nhân.
Sự phát triển về lượng của giai cấp công nhân bao gồm sự phát triển số
lượng lao động công nghiệp trong tổng số lao động xã hội, tỷ lệ lao động
công nghiệp trong lĩnh vực kinh tế, xã hội và cơ cấu của giai cấp công nhân.
Thông qua sự phát triển về lượng của công nhận có thể thấy dc trình độ,
quy mô của công nghiệp hóa và sự tự chuẩn bị của giai cấp đang làm sứ
mệnh lịch sử.
Sự phát triển về chất của giai cấp công nhân.
Với tư cách là bộ phận quan trọng nhất của LLSX hiện đại, năng lực
làm chủ công nghệ hiện đại của công nhân xác nhận vị thế đại diện cho
phương thức sản xuất tiên tiến. Trình độ văn hóa và tay nghề tương xứng với
công nghệ hiện đại là thước đo trình độ phát triển của công nhân.
Với tư cách là chủ thể của sứ mệnh lịch sử, giai cấp công nhân cần phải
đạt tới trình độ giác ngộ cao về chính trị. Phẩm chất này được thể hiện trước
hết ở trình độ giác ngộ về giai cấp.
- Trong xã hội hiện đại, giai cấp công nhân cũng là đại biểu cho lợi ích
chân chính của dân tộc và cùng với dân tộc để giải quyết những nhiệm vụ
lịch sử trong quá trình phát triển của quốc gia dân tộc là phẩm chất chính trị
cần tu dưỡng với giai cấp công nhân và chính Đảng của nó.
Đảng cộng sản nhân tố chủ quan cơ bản nhất để thực hiện sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân muốn thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử của
mình phải thông qua sự lãnh đạo của đội tiền phong là tổ chức Đảng cộng
sản hạt nhân chính trị của giai cấp công nhân.
Đảng Cộng Sản là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân. Sự thâm
nhập của chủ nghĩa Mác, sự hình thành Đảng Cộng sản đánh dấu trình độ
đấu tranh tự giác, tính chất chính trị của phong trào, làm cho phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân chuyển từ phong trào đấu tranh tự phát, lẻ tẻ, rời
rạc, vì mục đích kinh tế trước mắt, thành cuộc đấu tranh tự giác, có tổ chức,
có lãnh đạo, vì mục đích chính trị rộng lớn.
Đảng cộng sản là bộ tham mưu của giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản
định ra cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược đấu tranh; là người tổ
chức, động viên sức mạnh, nguồn lực chính trị xã hội trong phong trào công
nhân. Đảng có khả năng thu hút đông đảo quần chúng nhân dân hướng theo
giai cấp công nhân, tiến hành cuộc đấu tranh lật độ ách thống trị của giai cấp
tư sản, xây dựng CNXH và CNCS.
Đảng cộng sản là đội tiên phong đấu tranh cho lợi ích của giai cấp công
nhân và của dân tộc. Tính tiên phong của Đảng Cộng Sản là đòi hỏi khách
quan của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân và các
tầng lớp nhân dân lao động tiến hành. Do vậy, đội tiền phong lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa phải là tổ chức của những con người ưu
tú nhất trong giai cấp công nhân và nhân dân lao động, có lý luận khoa học
dẫn đường; có ý chí và hành động cách mạng kiên định phù hợp với tư tưởng,
lý luận; có tổ chức chặt chẽ, khoa học, dân chủ và thống nhất; tính tiền
phong còn bao gồm cả phẩm chất hi sinh, gương mẫu của tổ chức Đảng và
đảng viên.
Giai cấp công nhân coi Đảng Cộng sản là hạt nhân chính trị của mình và
sự ra đời của Đảng là mốc đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp công nhân.
Đảng coi giai cấp công nhân là cơ sở xã hội hàng đầu của mình. Quan hệ giữa
Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân là quan hệ máu thịt và bất cứ sự chia
rẽ, xa rời nào cũng đều làm tổn hại cả hai nhân tố này và làm ảnh hưởng tiêu
cực đến quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử.
Giai cấp công nhân và Đảng của nó phải là trung tâm đoàn kết toàn
dân, đoàn kết quốc tế, ý chí, nhận thức và hành động thống nhất, đồng thời
- kiên quyết đấu tranh chống mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch,
phản động chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Liên hệ giai cấp công nhân Việt Nam:
GCCNVN là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm
những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại
hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh
và dịch vụ có tính chất công nghiệp”. Đảng cộng sản Việt Nam chỉ rõ: giai
cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn:
+Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là ĐCSVN
+Giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; tiên phong trong
sự nghiệp xây dựng CNXH, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH – HĐH
đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,công bằng, văn minh;
+Lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Cùng với quá trình CNH, GCCNVN ko ngừng tăng nhanh về số lượng,
chất lượng, cơ cấu đa dạng
+ Trước đổi mới, số lượng CN nước ta là 3,7 triệu, đến năm 2013 tăng
lên gần 11 triệu và đến nay là gần 15 triệu, chiếm 21% tổng số lao động và
11% dân số cả nước. Trong đó doanh nghiệp nhà nước có 2 triệu CN, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có 1,6 triệu CN, số còn lại là doanh nghiệp
tư nhân. Hàng năm công nhân và công nghiệp đống góp hơn 60% tổng sản
phẩm XH và 70% ngân sách nhà nước.
+ Phát huy vai trò lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng cộng sản.
+ Tiên phong trong xây dựng CNXH, lực lượng đi đầu trong CNHHĐH
hội nhập kinh tế thế giới;
+ Là lực lượng nòng cốt trong liên minh công nông trí và đại đoàn kết
dân tộc
Tuy nhiên, GCCNVN vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập cần được sớm
khắc phục
+ Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu của
sự nghiệp CNH – HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế
+ Chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ cấu, trình độ học vấn,
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp;
+ Thiếu các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành
nghề;
+ Tác phong công nghiệp và kỹ luật lao động còn nhiều hạn chế;
- + Phần lớn công nhân xuất thân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản
và có hệ thống. Một bộ phận công nhân chậm thích nghi với cơ chế thị
trường.
+ Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không đồng đều;
+ Sự hiểu biết về chính sách pháp luật còn thiếu
+ Việc làm, đời sống vật chất và tình thần của công nhân đang có nhiều
khó khăn, bức xúc .
Những thách thức của GCCN VN hiện nay
Đối với vai trò lãnh đạo đất nước đi lên CNXH đang có mâu thuẩn giữa
yêu cầu tiên phong, đi đầu trong sự nghiệp lãnh đạo đất nước đi lên CNXH
với hiện trạng còn nhiều bất cập về trình độ văn hóa, tay nghề và giác ngộ
chính trị trong một bộ phận lớn công nhân nước ta.
Đối với vai trò đi đầu trọng sự nghiệp CNH, HĐH gắn với phát triển tri
thức và hội nhập quốc tế, năng lực làm chủ khoa học công nghệ của công
nhân, năng lực lãnh đạo, tổ chức quản lý của Đảng và Nhà nước, năng lực
quản lý và kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước, thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN chưa hoàn thiện.
Đối với vai trò là hạt nhân của khối liên minh công –nông –trí thức và
đại đoàn kết dân tộc, giai cấp công nhân nước ta hiện nay cũng còn nhiều bất
cập trước hai lực cản lớn là mặt trái của cơ chế thị trường và năng lực tổ
chức quản lý của bản thân.
Đối với quá trình trình xây dựng và phát triển giai cấp công nhân nước
ta hiện nay,vấn đề đặt ra là mâu thuẫn giữa thực trạng hiện có với nhu cầu
tăng cường vị thế và vai trò của giai cấp công nhân để có thể thực hiện sứ
mệnh lịch sử.
Phương hướng và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân việt nam
Xây dựng GCCN lớn mạnh , có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị
vững vàng; có ý thức công dân, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu cho
tinh hoa văn hóa của dân tộc; nhạy bén và vững vàng trước những diễn biến
phức tạp của tình hình trong nước; có tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết,
hợp tác quốc tế; thực hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN lãnh đạo cách mạng
thông qua ĐCS VN. Xây dựng GCCN lớn mạnh, phát triển nhanh về số
lượng, nâng cao chất lượng, có cơ cấu đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước;
ngày càng được tri thức hóa;có trình độ học vấn chuyên môn, kỹ năng nghề
nghiệp cao, có khả năng tiếp cận và lảm chủ khoa học công nghệ tiên tiến,
hiện đại trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức; thích ứng nhanh với cơ
chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; có gác ngộ giai cấp, bản lĩnh
chính trị vững vàng, có tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động cao
- Phương hướng đến năm 2020 phấn đấu đạt:
Hình thành và triển khai thực hiện chiến lược xây dựng giai cấp công
nhân gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
Giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc, cấp bách của GCCN.
Có bước tiến về đào tạo, nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu phát triển
đất nước.
Nâng cao giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, hiểu biết pháp luật, tác
phong công nghiệp và kỷ luật lao động, xây dựng lối sống lành mạnh trong
CN
Tăng tỷ lệ đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý xuất thân từ công nhân.
Phát triển đảng và xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở các doanh nghiệp. Đổi mới
nội dung phương thức hoạt động của tổ chức đảng ở các doanh nghiệp phù
hợp với từng thành phần kinh tế
Đẩy mạnh phát triển đoàn viên và tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên..
tại các doanh nghiệp
Giải pháp xây dựng và phát triển GCCN Việt Nam
Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về giai cấp
công nhân trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc
tế.
Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước tri thức
hóa giai cấp công nhân.
Quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh
thần dân tộc cho giai cấp công nhân
Bổ sung, sửa đổi, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách,
pháp luật để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân;
chăm lo đời sống tinh thần vật chất cho công nhân.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của tổ chức công
đoàn và các tổ chức chính trị xã hội khác trong xây dựng giai cấp công nhân.
Câu 3: Tại sao nói quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản
tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản? Liên hệ sự vận động quy luật giá trị
thặng dư nền kinh tế ở nước ta?
Giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động,
do công nhân làm thuê tạo ra và thuộc về nhà tư bản. Giá trị thặng dư là lao
động không công của công nhân làm thuê, thể hiện bản chất bóc lột của quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, vì
vậy, các nhà tư bản dùng hai phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá
trị thặng dư. Đó là:
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được bằng cách kéo
dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất
lao động, thời gian lao động tất yếu và giá trị sức lao động không thay đổi.
Vd: Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động
tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư, giá trị thặng dư tuyệt đối
được tạo ra trong thời gian lao động thặng dư là 4 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư
là 100%. Nếu ngày lao động kéo dài thành 10 giờ, trong khi năng suất lao
động, thời gian lao động tất yếu và giá trị sức lao động không đổi, giá trị
thặng dư tuyệt đối được tạo ra trong thời gian lao động thặng dư là 6 giờ và
tỷ suất giá trị thặng dư là 150%.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: Bất cứ nhà tư bản nào
cũng muốn kéo dài ngày công lao động của công nhân, nhưng việc kéo dài đó
không thể vượt qua giới hạn sinh lý của công nhân. Bởi vì, người công nhân
cần có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khỏe. Do vậy,
việc kéo dài thời gian lao động gặp sự phản kháng gay gắt của giai cấp công
nhân đòi giảm giờ làm.
Khi độ dài ngày lao động không thể kéo dài thêm, vì lợi nhuận của mình,
nhà tư bản lại tìm cách tăng cường độ lao động của người công nhân. Vì tăng
cường độ lao động có nghĩa là chi phí nhiều sức lao động hơn trong một
khoảng thời gian nhất định. Nên tăng cường độ lao động về thực chất cũng
tương tự như kéo dài ngày lao động. Vì vậy, kéo dài thời gian lao động hay
tăng cường độ lao động đều để sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối. Phương
pháp này chủ yếu áp dụng trong thời kỳ đầu nền sản xuất tư bản, với việc
phổ biến sử dụng lao động thủ công và năng suất lao động thấp.
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được bằng cách rút
ngắn thời gian lao động tất yếu, nhờ đó kéo dài thời gian lao động thặng dư,
trong khi ngày công lao động có thể không đổi hoặc thậm chí rút ngắn.
Vd: Ngày lao động có độ dài 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ,
thời gian lao động thặng dư là 4 giờ, giá trị thặng dư tuyệt đối được tạo ra
trong thời gian lao động thặng dư là 4 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là 100%.
Nếu ngày lao động không đổi, thời gian lao động tất yếu giảm xuống còn 3
giờ, thì tỷ suất giá trị thặng dư sẽ tăng lên thành 167%. Nếu ngày lao động rút
ngắn còn 7 giờ, thời gian lao động tất yếu giảm xuống còn 2 giờ, thì tỷ suất
gá trị thặng dư sẽ tăng lên thành 250%.
Điểm mấu chốt của phương pháp này là phải hạ thấp giá trị sức lao
động. Điều đó đồng nghĩa với giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ
cần thiết cho công nhân. Muốn vậy phải tăng năng suất lao động xã hội trong
- các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất
để trang bị cho ngành sản xuất ra các tư liệu tiêu dùng.
Phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong giai đoạn chủ nghĩa tư
bản phát triển. nhưng lúc đầu chỉ một số nhà tư bản làm được vì điều kiện
khoa học, kỹ thuật chưa cho phép. Khi đó, các nhà tư bản này tăng được năng
suất lao động nên thu được giá trị thặng dư siêu ngạch. Khi các nhà tư bản
đều cải tiến kỹ thuật, giá trị thặng dư siêu ngạch sẽ không còn. Tất cả sẽ thu
được giá trị thặng dư tương đối. Do đó giá trị thặng dư siêu ngạch là biến
tướng của giá trị thặng dư tương đối.
Ngoài GTTD tuyệt đối và GTTD tương đối, nhà tư bản còn có cả
GTTD siêu ngạch:
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do áp dụng
công nghệ mới sớm hơn các xí nghiệp khác làm cho giá trị cá biệt của hàng
hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.
Như thế nhà tư bản chỉ phải bỏ ra ít chi phí hơn các nhà tư bản khác mà
vẫn bán được với giá như các nhà tư bản khác, từ đó thu được giá trị thặng
dư cao hơn. Khi số đông các xí nghiệp đều đổi mới kỹ thuật và công nghệ
một cách phổ biến thì giá trị thặng dư siêu ngạch của doanh nghiệp đó sẽ
không còn nữa.
Như vậy, quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ
nghĩa tư bản. Nó tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của XHTB, quyết định toàn
bộ quá trình phát sinh, phát triển của CNTB và thay thế CNTB bằng một xã
hội mới, cao hơn. Phản ánh mục đích của nền sản xuất và phương tiện đạt
mục đích. Sản xuất giá trị thặng dư phản ánh quan hệ giữa tư bản và lao
động, đây là quan hệ cơ bản trong Xh tư bản, nó tác động mạnh mẽ đến XH
TBCN.
Liên hệ sự vận động quy luật giá trị thặng dư và nền kinh tế ở
nước ta hiện nay:
1. Thực trạng
Về tực trang hiện nay, ta thấy: Trong học thuyết của C. Mác, có hai
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
và sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Tuy nhiên, Việt Nam đi theo con
đường xã hội chủ nghĩa, nên phương thức tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối
không được sử dụng, thời gian lao động không bị kéo quá 8 tiếng một ngày
hay 48 tiếng một tuần theo bộ luật Lao Động. Gạt bỏ đi mục đích và tính
chất của tư bản thì có thể áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
tương đối và biến tấu của nó – giá trị thặng dư siêu ngạch vào nền kinh tế
Việt Nam.
- Trước đổi mới, các doanh nghiệp Việt Nam đều là doanh nghiệp nhà
nước được nhà nước bao cấp hoàn toàn. Sản phẩm làm ra theo định lượng
của nhà nước, thậm chí là còn không cần biết đến việc sản phẩm đó tạo ra
có đúng theo nhu cầu của thị trường hay không, vì thế mà nền kinh tế trì trệ.
Sau đổi mới năm 1986, các doanh nghiệp nhà nước không còn hoàn toàn
được nhà nước bao cấp nữa mà bắt đầu phải tự chủ, bước vào nền kinh tế
thị trường, đồng thời, các doanh nghiệp tư nhân đầu tiên cũng ra đời. Tiếp
đến, sự tràn vào của hàng hóa các nước khác, đặc biệt là hàng Trung Quốc giá
rẻ đã tạo nên một áp lực lớn đối với các doanh nghiệp trong nước. Áp lực này
buộc họ phải đổi mới công nghệ nhằm tăng sức cạnh tranh để có thể tồn tại
và đứng vững trong nền kinh tế thị trường.
Để tạo ra được nhiều giá trị thặng dư, các doanh nghiệp bắt đầu chuyên
môn hóa trong việc sản xuất sản phẩm, phân chia công đoạn chi tiết, đầu tư
vào việc mua lại công nghệ và máy móc, áp dụng các phương thức quản lí
mới. Ban đầu, với lượng kinh phí còn hạn hẹp, họ mua lại những công nghệ
và máy móc cũ đã lỗi thời ở các nước phát triển với giá thành rẻ, rồi dần dần
chuyển đổi sang những công nghệ mới hiện đại hơn. Đồng thời, khi Việt
Nam còn chưa có nguồn nhân lực tri thức cao, các chuyên gia nước ngoài cũng
được mời về để chuyển giao công nghệ.
Sau khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với các
đối thủ mới (các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia có tiềm lực tài chính,
công nghệ, kinh nghiệm và năng lực cạnh tranh cao), phải cạnh tranh quyết
liệt trong điều kiện mới. Vì vậy, việc đổi mới công nghệ và đào tạo nguồn
nhân lực lại càng trở thành nhu cầu cấp bách khi cạnh tranh để tạo ra nhiều
giá trị thặng dư hơn.
2. Kết quả đạt được
Để tạo ra giá trị thặng dư nên các doanh nghiệp đã từng bước đầu tư
công nghệ vào sản xuất do đó sản phẩm tạo ra ngày càng nhiều, chất lượng
được nâng cao phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu nước
ngoài.
KT tư nhân góp phần quan trọng trong PT KT.
Có thể nói, điều kiện điểm xuất phát nền kinh tế Việt Nam thấp, nhưng
qua khoảng thời gian sau đổi mới, áp dụng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa đã có rất nhiều chuyển biến tích cực. Tiếp tục vận dụng
những phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, đồng thời học tập từ những
nước phát triển, các doanh nghiệp của nước ta có thể đẩy mạnh kích thích
sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, sử dụng kỹ thuật mới, cải tiến tổ
chức quản lí, tiết kiệm chi phí sản xuất nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
giúp đất nước thoát khỏi tình trạng nước nghèo, vững mạnh hơn và giàu đẹp
hơn.
- 3. Hạn chế
Công nghệ VN tuy đã được đầu tư nhiều nhưng vẫn còn lạc hâu so với
các nước trên thế giới. Nguyên nhân là máy móc thiết bị hiện đại chi phí lớn
nên các doanh nghiệp thường mua máy móc thiết bị cũ.
Trình độ theo kịp khoa học kỹ thuật của nhân lực VN còn hạn chế.
Cơ chế chính sách PT Kinh tế nhưng chưa đảm bảo giữ gìn môi trường.
4. Giải pháp
Một, các doanh nghiệp trong nước cần cố gắng hơn nữa trong vi ệc thay
đổi công nghệ. Hiện nay có nhiều doanh nghiệp trong nước đã tiến hành hợp
tác với các doanh nghiệp nước ngoài trên cơ sở hai bên cùng có lợi, vừa giúp
doanh nghiệp nước ngoài làm quen nhanh chóng hơn với nền kinh tế trong
nước, vừa tạo điều kiện giúp doanh nghiệp trong nước có được những công
nghệ tiên tiến để phát triển sản xuất.
Hai, nâng cao chất lượng dạy và học, giảm dần khoảng cách giữa lý
thuyết và thực tế là vô cùng cần thiết để tránh hiện trạng có cầu mà không có
cung như hiện nay.
Ba, trong nền KT thị trường VN phải chấp nhận bóc lột giá trị thặng dư
nhưng phải đảm bảo ở mức sao cho mức lương trả cho người lao động
không được dưới giá trị thực của nó.
Bốn, hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sao cho bỏ ra ít vốn
nhất nhưng giá trị bán ra đạt KQ cao.
Năm, phân phối lại thu nhập quốc dân bằng cách lấy của người giàu chia
cho người nghèo bằng cách thông qua việc đánh thuế hợp lý cho từng đối
tượng, từng loại hình doanh nghiệp sẽ đảm bảo công bằng hơn trong phúc lợi
XH.
Sáu, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và chủ doanh
nghiệp bằng Luật và các chế tài cụ thể để đảm bảo công bằng, minh bạch,
bền vững.
Trong nền KT thị trường hàng hóa nhiều thành phần của nước ta hiện
nay các doanh nghiệp tư nhân không phải hoàn toàn áp dụng quy luật giá trị
thặng dư giống CNTB và cũng không phải hoàn toàn chịu sự ảnh hưởng của
quy luật giá trị thặng dư. Chính vì thế sự thừa nhận tiến bộ, hợp pháp của KT
tư nhân và khuyến khích PT là tạo điều kiện PT XH chứ không phải khuyến
khích bóc lột giá trị thặng dư. Đó là cách vậy dụng sáng tạo CN Mác – Lenin
trong điều kiện KT nước ta hiện nay.
- Câu 4: Trình bày đặc điểm kinh tế cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH ?
Liên hệ sự vận dụng của Đảng ta.
Đặc điểm kinh tế cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH là sự tồn tại
khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần, tương ứng với các giai cấp,
tầng lớp xã hội khác nhau nhưng vị trí, cơ cấu, tính chất của các giai cấp,
tầng lớp này có sự biến đổi sâu sắc.
Liên hệ sự vận dụng của Đảng ta
Xuất phát điểm của nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế kém phát
triển trải qua thời kỳ chiến tranh, kết cấu hạ tầng và vật chất của nước ta
còn ở trình độ thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, trình độ công
nghệ lạc hậu, máy móc cũ kỹ, quy mô sản xuất nhỏ bé, năng suất, chất
lượng, hiệu quả sản xuất còn thấp chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng.
Trong thời kỳ bao cấp: đây là thời kỳ thực hiện chế độ quản lý tập
trung quan liêu bao lấy kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể là chủ yếu điều
nàyđã kìm hãm sự phát triển của tiến bộ khoa học – kỹ thuật. Chế độ công
hữu được thiết lập một cách nóng vội không những ko tạo ra được động lực
mà còn kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Sở hữu tư nhân không được
thừa nhận, không phát huy được sự sáng tạo, trí tuệ của nhân dân điều này
tạo ra nhiều lực cản đối với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội.
Chế độ phân phối và bình quân đã không gắn được kết quả sản xuất với
năng suất lao động và hiệu quả lao động, triệt tiêu động lực của người lao
động. Phân phối thời bao cấp cũng tạo nên sự nghịch lý trong xã hội: Người
có nhu cầu chưa hẳn được phân phối, còn người được phân phối chưa hẳn có
nhu cầu; không khai thác được vai trò, sức mạnh của quan hệ hàng hóa – tiền
tệ để phát triển đất nước. Chính vì vậy, việc đối mới cơ chế quản lý kinh tế
trở thành nhu cầu cấp thiết cần thực hiện ngay.
Đại hội VI năm 1986 đã khẳng định rõ tính tất yếu khách quan của sự
tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần. Đại hội cho rằng: “Xuất phát từ sự
đánh giá những tiềm năng tuy phân tán nhưng rất quan trọng trong nhân dân
cả về sức lao động, kỹ thuật, tiền vốn, khả năng tạo việc làm, chúng ta chủ
trương : đi đôi với việc phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, tăng
cường tích lũy tập trung của Nhà nước và tranh thủ vốn ngoài nước, cần có
chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác”. Đồng
thời chỉ ra: “ở nước ta các thành phần đó là: kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm
khu vực quốc doanh và khu vực tập thểcùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn
với thành phần đó. Các thành phần kinh tế khác gồm: Kinh tế tiểu sản xuất
hàng hóa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình
thức mà hình thức cao là công tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc
- trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng núi
cao khác.
Kế thừa và phát huy quan điểm về nền kinh tế nhiều thành phần của
Đại hội VI, Đại hội VII nêu rõ: Trong nền kinh tế thị trường với quyền tự
do kinh doanh được pháp luật bảo đảm từ ba loại hình sở hữu cơ bản (Sở
hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân), sẽ hình thành nhiều thành
phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng.
Kinh tế quốc doanh được cũng cố và phát triển trong những ngành và
lĩnh vực then chốt, nắm những doanh nghiệp trọng yếu, đảm đương những
hoạt động mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện đầu tư kinh
doanh. Khu vực kinh doanh phải được sắp xếp lại, đổi mới công nghệ và tổ
chức quản lý, kinh doanh có hiệu quả, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh
tế khác, thực hiện vai trò chủ đạo và chức năng của một công cụ điều tiết vĩ
mộ của nhà nước.
Kinh tế tập thể, với hình thức phổ biến là HTX, đổi mới tổ chức và
phương thức hoạt động, phát triển rộng rãi và đa dạng trọng các ngành, nghề
với quy mô và mức độ tập thể hóa khác nhau, trên cơ sở tự nguyện góp vốn,
góp sức của những người lao động. Tổ chức và hoạt động của HTX không
phụ thuộc vào địa giới hành chính. Một gia đình có thể tham gia các HTX khác
nhau và có quyền rút ra khỏi HTX theo điều lệ.
Kinh tế cá thể được khuyến khích phát triển trong các ngành nghề ở cả
thành thị và nông thôn, không bị hạn chế việc mở rộng kinh doanh, có thể tồn
tại độc lập, tham gia các loại hình HTX, liên kết với các doanh nghiệp lớn
bằng nhiều hình thức.
Kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa
bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm.
Kinh tế gia đinh không phải là một thành phần kinh tế độc lập nhưng
được khuyến khích phát triển mạnh.
Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có thể liên kết thành các
liên hiệp hoặc tập đoàn kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện trên cơ sở hiệu
quả kinh tế và cùng có lợi; Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách: kinh tế
nhiều thành phần, không phân biệt, đối xử, không tước đoạt tài sản hợp pháp,
không gò ép tập thể hóa tư liệu sản xuất, không áp đặt hình thức kinh doanh,
khuyến khích các hoạt động có lợi quốc kế dân sinh.
Tại đại hội VIII tiếp tục khẳng định: Thực hiện nhất quán lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, lấy việc giải
phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài
cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải
thiện đời sống của nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích
- phát triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh… thực hiện
các chủ trương chính sách sau đối với các thành phần kinh tế:
Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước để làm tốt
vai trò chủ đạo, tập trung nguồn lực để phát triển kinh tế nhà nước trong
những ngành, những lĩnh vực trọng yếu như: kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội,
hệ thống tài chính,…; đổi mới và tăng cường hoạt động kinh tế nhà nước
trong lĩnh vực phân phối lưu thông. Phát huy vai trò trung tâm kinh tế , khoa
học – công nghệ, văn hóa – xã hội của doanh nghiệp nhà nước trong nông,
lâm, ngư nghiệp, nhất là ở vùng miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc ít
người.
Triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước để huy động thêm vốn, tạo điều kiện thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có
hiệu quả.
Kinh tế hợp tác mà nòng cốt là HTX được chú trọng phát triển với nhiều
hình thức đa dạng, từ thấp đến cao, từ tổ nhóm hợp tác đến hợp tác xã; tuân
thủ nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lới, quản lý dân chủ.
Kinh tế tư bản nhà nước giữ vai trò quan trọng trong việc động viên
tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý,…
Kinh tế cá thể, tiểu chủ: có vị trí, vai trò quan trọng, lâu dài. Giúp đỡ
kinh tế cá thể, tiểu chủ giải quyết các khó khăn về vốn, về khoa học và công
nghệ,…
Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích đầu tư vào sản xuất, yên tâm
làm ăn lâu dài,…
Đại hội IX cũng chỉ rõ: 6 thành phần kinh tế ở nước ta trong giai đoạn
này bao gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh
tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài.
Trong Đại hội X, Đảng ta xác định còn 5 thành phần kinh tế: Kinh tế
nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài.
Đại hội XI: chỉ rõ 4 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Đại hội thứ XII nhấn mạnh: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò quan trọng của nên kinh tế; các
chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo
pháp luật.
- Nghị quyết Hội nghị TW lần thứ 5 khóa 12 khẳng định: Kinh tế tư nhân
là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế. Kinh tế nhà nước, kinh tế
tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển nền kinh tế độc
lập, tự chủ. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát
triển nhanh, bền vững, đa dạng với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng,
quy mô, chất lượng và tỉ trọng đóng góp trong GDP. Khuyến khích kinh tế tư
nhân tham gia góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước khi cổ
phần hoá hoặc Nhà nước thoái vốn. Thúc đẩy phát triển mọi hình thức liên
kết sản xuất, kinh doanh, cung cấp hàng hoá, dịch vụ theo mạng sản xuất,
chuỗi giá trị thị trường giữa kinh tế tư nhân với kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm tiếp nhận, chuyển
giao, tạo sự lan toả rộng rãi về công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại, nâng
cao giá trị gia tăng và mở rộng thị trường tiêu thụ…
Như vậy, kế thừa quan điểm của chũ nghĩa MacLenin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về các thành phần kinh tế trong thời kì quá độ lên CNXH, Đảng ta đã
vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh đất nước, trên cơ sở phân tích đặc điểm
của từng bước quá độ. Từ đó qua từng kỳ đại hội, không những nhất quá
thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, mà còn xác định rõ các thành
phần kinh tế, tạo cơ sở cho hoạch định và thực thi đúng đắn các chính sách
với các thành phần kinh tế.
Câu 5: Những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam:
Để thực hiện đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa cộng sản theo Chủ nghĩa
MacLênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, muốn vậy trong thời kỳ quá độ chúng ta
cần phải thực hiện những nhiệm vụ kinh tế cơ bản sau:
Thực hiện phát triển lực lượng sản xuất:
Trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta xác
định xây dựng chủ nghĩa xã hội là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh; do nhân dân lao động làm chủ; có nền kinh tế phát triển
cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc
trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng
phát triển; có Nhà nước phát quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác
với các nước trên thế giới.
Về nhiệm vụ phát triển lực lượng sản xuất, Đảng ta xác định: Phát triển
lực lượng sản xuất thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc
dân. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài