Nâng cấp TK VIP tải tài liệu không giới hạn và tắt QC

Tiểu luận Triết học số 23 - Phép biện chứng duy vật về mối liên hệ phổ biến

Tiểu luận cung cấp cho người học các kiến thức: Tiểu luận triết học, triết học Mac Lenin, tri thức trong đời sông-xã hội, phép biện chứng duy vật về mối liên hệ phổ biến,... » Xem thêm

03-07-2018 313 47
QUẢNG CÁO

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. LỜI GIỚI THIỆU Trong xu thế toàn cầu hoá quốc tế hoá hiện nay, các quốc gia trên thế  giới  ở  mức độ  này hay mức độ  khác đều tuỳ  thuộc lẫn nhau, có quan hệ  qua lại với nhau. Vì thế nước nào đóng cửa với thế giới là đi ngược lại xu   thế  của thời đại và khó tránh khỏi bị  rơi vào lạc hậu, trái lại mở  cửa hội   nhập kinh tế  quốc tế  tuy có phải trả  giá nhất định song đó là yêu cầu tất   yếu hướng tới sự phát triển của mỗi nước, mỗi quốc gia.  Đứng trước yêu cầu ngày càng cấp bách đó, Đại hội Đảng IX đã đưa  ra văn kiện về  vấn đề  xây dựng nền kinh tế  độc lập tự chủ  với hội nhập  kinh tế quốc tế. Trong bối cảnh hiện nay đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế  độc lập tự  chủ  và chủ  động hội nhập kinh tế  quốc tế  là hoàn toàn đúng  đắn và chính xác. Hai mặt đó có mối quan hệ biện chứng với nhau, bổ sung  cho nhau nhằm phát triển nền kinh tế  nước ta ngày càng vững mạnh theo  định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến tôi viết bài tiểu  luận này với mong muốn mọi người có một cách nhìn sâu sắc hơn, cặn kẽ  hơn, toàn diện hơn về  những nguy cơ  thách thức cũng như  thời cơ  khi   chúng ta tham gia vào quá trình hội nhập kết hợp với xây dựng nền kinh tế  độc lập tự chủ, và ảnh hưởng qua lại giữa việc xây dựng nền kinh tế độc   lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế.  Trong khuôn khổ  hạn hẹp của một bài tiểu luận tôi không thể  trình  bày tất cả các vấn đề liên quan đến việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự  chủ và hội nhập kinh tế quốc tế mà chỉ có thể  đi sâu vào nghiên cứu phân  tích mối quan hệ giữa chúng đồng thời đưa ra những giải pháp, những kiến  nghị nhằm góp phần hoàn thiện đường lối xây dựng nền kinh tế độc lập tự  chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. 1
  2. CHƯƠNG I PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN 1.  PHÉP   BIỆN   CHỨNG  DUY   VẬT   LÀ   KHOA   HỌC   VỀ   MỐI   LIÊN   HỆ   PHỔ  BIẾN. 1.1. Phép biện chứng duy vật Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ  khẳng định bản chất vật   chất, tính thống nhất vật chất của thế giới, mà còn khẳng định các sự vật,  hiện tượng trong thế giới luôn tồn tại trong sự liên hệ, trong sự  vận động   và phát triển không ngừng theo những quy luật vốn có của nó. Làm sáng tỏ  những vấn đề  đó là nội dung cơ  bản của phép biện chứng. Chính vì vậy,   Ph.Ănghen đã khẳng định rằng phép biện chứng là lý luận về  mối liên hệ  phổ  biến, là môn khoa học về  những quy luật phổ biến của sự  vận động  và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư  duy. V.I. Lênin  nhấn mạnh thêm: Phép biện chứng là học thuyết sâu sắc nhất, không phiến  diện về sự phát triển. 1.2. Nội dung của phép biện chứng duy vật  1.2.1. Hai nguyên lý cơ bản:  ­ Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến ­ Nguyên lý về sự phát triển  1.2.2. Các cặp phạm trù cơ bản: ­ Cái riêng ­ cái chung ­ Bản chất ­ hiện tượng ­ Tất nhiên ­ ngẫu nhiên ­ Nội dung ­ hình thức ­ Nguyên nhân ­ kết quả ­ Khả năng ­ hiện tượng 1.2.3. Ba quy luật cơ bản: 2
  3. ­ Từ  những thay đổi về  lượng dẫn đến những thay đổi về  chất và  ngược lại. ­ Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. ­ Quy luật phủ định của phủ định. 3
  4. 2. MỘT TRONG HAI NGUYÊN LÝ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:  Trên cơ sở  kế  thừa các giá trị  về  tư tưởng biện chứng trong kho tàng   lý luận của nhân loại, đồng thời khái quát những thành tựu mới nhất của  khoa học tự  nhiên thế  kỷ  XIX (khoa học về  các quá trình, về  nguồn gốc,  về  mối liên hệ  và sự  phát triển) phép biện chứng duy vật đã phát hiện ra  nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật và hiện tượng trong thế  giới, coi đây là đặc trưng cơ bản của phép biện chứng duy vật. 2.1. Khái niệm: ­ Liên hệ: Là sự quy định lẫn nhau , tác động lẫn nhau giữa các yếu tố  trong cùng một sự vật hoặc giữa các sự vật hiện tượng của nhau. ­ Liên hệ  phổ  biến: Là những mối liên hệ  tồn tại một cách phổ  biến   cả  trong tự  nhiên xã hội và tư  duy. Mối liên hệ  phổ  biến mang tính chất   bao quát, nó tồn tại thông qua những mối liên hệ  đặc thù của sự  vật, nó  phản ánh tính đa dạng và tính thống nhất của thế giới. 2.2. Nội dung nguyên lý: ­ Triết học Mác khẳng định mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều  nằm trong mối liên hệ  phổ  biến, không có sự  vật hiện tượng nào tồn tại  một cách biệt lập mà chúng tác động đến nhau ràng buộc quyết định và  chuyển hoá lẫn nhau. Các mối liên hệ  trong tính tổng thể của nó quy định   sự tồn tại vận động, biến đổi của sự vật. Khi các mối liên hệ thay đổi tất   yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi sự vật. 2.3. Ý nghĩa của nguyên lý 2.3.1. Cơ sở khoa học của quan điểm toàn diện: ­ Trong nhận thức và hoạt động phải xem xét sự  vật trong tính toàn  vẹn của nhiều mối liên hệ, nhiều mặt, nhiều yếu tố vốn có của nó kể  cả  các quá trình, các giai đoạn phát triển của sự vật cả trong quá khứ hiện tại   và tương lai. Có như  vậy mới nắm được thực chất của sự  vật. Khi tuân   4
  5. thủ  nguyên tắc này chủ  thể  tránh được sai lầm cực đoan phiến diện một   chiều. ­ Không được đồng nhất và san bằng vai trò của các mối liên hệ  của  các mặt sự vật. Phải phản ánh đúng vai trò của từng mặt, từng mối liên hệ.   Phải rút ra được những mối liên hệ bản chất nhất chủ yếu của sự vật khi   tuân thủ  nguyên tắc này con người sẽ  tránh được sai lầm nguỵ  biện và  chiết trung. 2.3.2. Cơ sở khoa học của quan điểm lịch sử cụ thể ­ Mọi sự vật hiện tượng trong thế giới vật chất tồn tại vận động phát   triển bao giờ cũng diễn ra trong những hoàn cảnh cụ thể, trong không gian   và thời gian xác định.  ­ Điều kiện: Không gian và thời gian có ảnh hưởng tới đặc điểm tính  chất sự vật. Cùng là một sự vật nhưng ở trong những điều kiện hoàn cảnh  khác nhau sẽ có những tính chất khác nhau. Yêu cầu: Khi nghiên cứu xem xét sự  vật hiện tượng phải  đặt nó trong hoàn  cảnh cụ  thể, trong không gian thời gian xác định mà nó đang tồn tại vận   động và phát triển đồng thời phải phân tích vạch ra  ảnh hưởng của điều  kiện hoàn cảnh của môi trường đối với sự tồn tại của sự vật, đối với tính   chất của sự vật và đối với xu hướng vận động và phát triển của nó. ­ Khi vận dụng một lý luận nào đó vào trong thực tiễn cần phải tính   đến điều kiện cụ  thể  của nơi vận dụng tránh bệnh giáo điều dập khuôn,  máy móc, chung chung. 3. TẠI SAO PHẢI VẬN DỤNG PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ  MỐI LIÊN HỆ  PHỔ  BIẾN VÀO PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC  LẬP TỰ CHỦ VỚI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ. Sau khi nghiên cứu kỹ  phép biện chứng duy vật về mối  liên hệ  phổ  biên ta dễ  ràng nhận ra rằng sự  vật hiện tượng luôn có mối liên hệ  mật   thiết với nhau chuyển hoá lẫn nhau hay nói cách khác mọi sự  vật hiện   5
  6. tượng tồn tại phải có mối liên hệ  với các sự  vật hiện tượng khác chứ  không thể tồn tại một cách tách biệt độc lập. Sở dĩ các sự  vật hiện tượng   có mối liên hệ với nhau là vì chúng là biểu hiện của vật chất vận động. Có   nguồn gốc chung từ vật động mà khi sự vận động có nghĩa  là có mối liên  hệ và các mối liên hệ của sự vật là cái khát quan vốn có của sự vật. Chính  vì vậy khi xem xét việc xây dựng nền kinh tế  độc lập tự  chủ  chúng ta  không thể  tách rời khỏi việc hội nhập kinh tế  quốc tế và ngược lại. Hơn   nữa theo quan điểm toàn diện khi xem xét một sự  việc hiện tượng mà cụ  thể   ở  đây việc xây dựng độc lập tự  chủ  chúng ta phải xem xét nó  trong  tính toàn vẹn của nhiều mối liên hệ khác nhau, nhiều mặt khác nhau mà cụ  thể  đây là  ảnh hưởng của việc xây dựng nền kinh tế  độc lập tự  chủ  với   hội nhập kinh tế  quốc tế  và ngược lại. Có như  vậy chúng ta mới nắm  được thực chất của sự vật mới tránh được những sai lầm cực đoan phiến   diện một chiều. Đặc biệt đây lại là những vấn đề  rất cấp bách đặt ra đối  với chúng ta khi tham gia quá trình toàn cầu hoá, quốc tế  hoá. Chỉ  có thể  dựa trên nguyên lý mối liên hệ phổ biến mới có thể giúp chúng ta nhìn sâu   hơn, hiểu sâu hơn về vấn đề mà mình đang nghiên cứu. Hơn nữa cũng theo  quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét một sự vật hiện tượng nào đó ta phải  đặt nó trong hoàn cảnh cụ  thể  không gian cụ  thể. Vấn đề  chúng ta đang   nghiên cứu  ở đây cần được đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, tình  hình kinh tế  nước ta hiện nay để  thấy rõ hơn được  ảnh hưởng của tình  hình thế giới, tình hình trong khu vực, tình hình trong nước đối với việc xây  dựng nền kinh tế  độc lập tự  chủ  kết hợp với hội nhập kinh tế  quốc tế.   Chính vì vậy dựa trên nguyên lý về mối liên hệ phổ  biến sẽ giúp chúng ta   có một cách nhìn cặn kẽ hơn, tổng quát hơn. Chẳng hạn liệu hội nhập kinh  tế quốc tế có phải là một xu thế tất yếu không, hội nhập có phải là hoà tan   hay không, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ như thế  nào cho phù hợp  với tình hình hiện nay, phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế  quốc tế…   Tất cả  những vấn đề  đó chỉ  có thể  giải đáp khi chúng ta hiểu rõ hơn về  6
  7. vấn đề  chúng ta đang nghiên cứu dựa trên nguyên lý về  mối liên hệ  phổ  biến. Từ đó ta có thể thấy rõ hơn tâm quan trọng của phép biện chứng mối   liên hệ phổ biến. Ở chương II, chương III chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu rõ hơn, cặn kẽ  hơn về mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập  kinh tế quốc tế trên cơ sở phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến. 7
  8. CHƯƠNG II XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ  VỚI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC 1. XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ  Có ý kiến cho rằng, trong điều kiện “toàn cầu hóa”  nền kinh tế, mở  cửa hội nhập mà lại đặt vấn đề  xây dựng kinh tế  độc lập tự  chủ  là thiếu   nhạy bén, không thức thời, thậm chí là bảo thủ, tư  duy kiểu cũ. Thế  giới   bây giờ  là một thị  trường thống nhất, cần thứ gì thì mua, thiếu tiền thì đi  vay, sao lại chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ (?!) Nói như vậy mới nghe qua thì thấy có vẻ có lý, nhưng nếu suy ngẫm   kỹ thì thấy không có cơ  sở  khoa học, vì nó quá ư giản đơn và phiến diện.   Chúng ta biết rằng, độc lập tự  chủ  là một xu thế  phát triển của thế  giới.   Trong điều kiện “toàn cầu hóa”, liên doanh, liên kết rất đa dạng và phức  tạp như hiện nay lại càng phải giữ vững tính độc lập tự chủ. Xây dựng nền kinh tế  độc lập tự  chủ  không chỉ  xuất phát từ  quan   điểm, đường lối chính trị  độc lập tự  chủ  mà còn là đòi hỏi của thực tiễn,  nhằm bảo đảm độc lập tự chủ vững chắc về chính trị, bảo đảm phát triển   bền vững và có hiệu quả cho chính ngay nền kinh tế, cho việc mở cửa, hội   nhập kinh tế quốc tế. Khi đã có độc lập tự chủ về chính trị thì nội dung cơ  bản của độc lập tự chủ của một quốc gia là có xây dựng được nền kinh tế  độc lập tự chủ hay không. Đây là kinh nghiệm của nước ta và cũng là kinh  nghiệm của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Vả chăng, nước ta   phát triển kinh tế  để  đi lên chủ  nghĩa xã hội, bối cảnh quốc tế  có nhiều   diễn biến phức tạp, các lực lượng chống đối chủ  nghĩa xã hội thường   xuyên tìm cách ngăn cản và chống phá sự  nghiệp xây dựng chế  độ  xã hội  chủ nghĩa ở nước ta. Nếu không xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ  thì dễ bị lệ thuộc, bị các thế lực xấu, thù địch lợi dụng vấn đề  kinh tế  để  8
  9. lôi kéo, hoặc khống chế, ép buộc chúng ta thay đổi chế  độ  chính trị, đi  chệch quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, có xây dựng được nền  kinh tế độc lập tự chủ thì mới tạo được cơ sở kinh tế, cơ sở vật chất ­ kỹ  thuật của chế  độ  chính trị  độc lập tự  chủ. Độc lập tự  chủ  về  kinh tế  là   nền tảng vật chất để  bảo đảm cho sự  độc lập tự  chủ  bền vững về  chính  trị. Không thể  có độc lập tự  chủ  về  chính trị  nếu bị  lệ  thuộc về  kinh tế.   Độc lập tự chủ về kinh tế được đặt trong mối quan hệ biện chứng với độc   lập tự chủ về các mặt khác sẽ tạo ra sự độc lập tự chủ và sức mạnh tổng   hợp của một quốc gia. 1.1. Thế nào là nền kinh tế độc lập tự chủ ? Nền kinh tế  độc lập tự  chủ  là nền kinh tế  không bị  lệ  thuộc, phụ  thuộc vào nước khác, người khác, hoặc vào một tổ chức kinh tế nào đó về  đường lối, chính sách phát triển, không bị bất cứ ai dùng những điều kiện  kinh tế, tài chính, thương mại, viện trợ... để áp đặt, khống chế, làm tổn hại  chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân tộc. Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế trước những biến động của   thị trường, trước sự khủng hoảng kinh tế tài chính ở  bên ngoài, nó vẫn có  khả năng cơ bản duy trì sự  ổn định và phát triển; trước sự bao vây, cô lập  và chống phá của các thế  lực thù địch, nó vẫn có khả  năng đứng vững,  không bị sụp đổ, không bị rối loạn. Bảo đảm độc lập tự  chủ  về  kinh tế  cũng có nghĩa là bảo đảm vững  chắc định hướng xã hội chủ nghĩa và giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa  dân tộc trong công cuộc phát triển kinh tế, tiến hành công nghiệp hóa, hiện  đại hóa đất nước. Không phải chờ  đến khi có trình độ  phát triển cao mới  đặt vấn đề giữ vững độc lập tự chủ, mà ngay từ đầu, ngay bây giờ đã phải   bảo đảm yêu cầu cơ  bản về  độc lập tự  chủ, trước hết là về  đường lối  chính trị, các nguyên tắc cơ  bản về  phát triển kinh tế. Đương nhiên, xây   9
  10. dựng kinh tế  độc lập tự  chủ  là một quá trình lâu dài, đi từ  thấp đến cao,  ngày càng hoàn chỉnh, ngày càng bền vững. Trong thời đại ngày nay, nói độc lập tự chủ về kinh tế không ai hiểu   đó là một nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp, mà đặt trong mối quan hệ  biện chứng với mở cửa, hội nhập, chủ động tham gia sự  giao lưu, hợp tác  và cạnh tranh quốc tế trên cơ sở phát huy tốt nhất nội lực và lợi thế so sánh  của quốc gia, từng bước xây dựng một cơ  cấu sản xuất đáp ứng được cơ  bản nhu cầu thiết yếu về đời sống của nhân dân và có khả năng trang bị lại   ở  mức cần thiết cho nhu cầu phát triển kinh tế, củng cố  quốc phòng ­ an   ninh. 1.2. Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay Trước hết phải kể đến mức tăng trởng cao. Tổng sản phẩm trong nớc (GDP) trong thời kỳ 1991­2000 đã tăng bình  quân hàng năm là 7,4%, theo đó tổng giá trị  GDP đạt gấp đôi năm 1990,  GDP theo đầu ngời tăng 1,8 lần. Nông nghiệp đạt tốc độ  tăng trởng khá  và toàn diện trên nhiều lĩnh  vực. Giá trị  sản lợng toàn ngành tăng bình quân hàng năm 5,6%. Trong đó  nông nghiệp tăng 5,4%, thuỷ sản tăng 9,1%, lâm nghiệp tăng 2,1%. Nổi bật nhất là sản 1ợng lơng thực tăng bình quân mỗi năm 1,1 triệu  tấn. Sản lợng lơng thực năm 2000 đạt 34 triệu tấn, đa mức lơng thực bình  quân đầu ngời từ 294,9 kg năm 1990 lên trên 436 kg năm 2000. Việt Nam từ  nớc nhập khẩu lơng thực hàng năm, trở  thành nớc xuất khẩu gạo thứ  hai  thế giới. Sản lợng của một số cây công nghiệp trong thời kỳ 1999­2000 đã tăng  khá cao: cà phê tăng 4,7 lần, cao su 4,5 lần, chè tăng 2 lần, mía tăng 3 lần,  bông tăng 9,7 lần. Sản lợng thuỷ sản tăng bình quân trong 10 năm là 8,85%:  Giá trị sản l­ ợng   công   nghiệp   tăng   bình   quân   trong   10  năm   qua   là   khoảng   12,8   –   13%/năm 10
  11. Công nghiệp chế  biến đã có tốc dộ  tăng trởng khá và đã chiếm tới  60,6% giá trị toàn ngành công nghiệp năm 1999. Dầu khí có tốc độ  tăng trởng cao nhất trong toàn ngành công nghiệp.  Sản lợng dầu thô năm 2000 đã tăng gấp 6 lần so với năm 1990. Sản lợng điện phát ra năm 2000 so với năm 1990 đã tăng gấp 3 lần,  sản lợng thép cán gấp 16 lần, xi măng gấp 5,3 lần, phân hoá học 4,2 lần,   giầy dép da 14,9 lần, giầy vải 4,9 lần, bột giặt 4,6 lần, đ ờng 3,6 lần, bia  7,3 lần... Giá trị  sản phẩm công nghiệp xuất khẩu tăng trung bình hàng năm là  20%. Các ngành dịch vụ  đã tăng trởng nổi bật trong các ngành thơng mại,   du lịch, bu chính viễn thông. Giá trị  hàng hóa bán ra trên thị  trờng trong nớc năm 1999 đã gấp 11,3  lần năm 1990. Khách du lịch quốc tế từ 1992 đến 1997 đã tăng bình quân hàng năm là   26,5%. Mật độ điện thoại năm 1999 đã tăng 13,8 so với năm 1991 và là nớc  có tốc độ phát triển viễn thông đứng thứ hai thế giới. Vận chuyển hàng hoá tăng bình quân trong 10 năm qua là 9,2%, vận  chuyển hành khách ­ 14,25%. Hoạt   động   xuất   khẩu  cũng   có   mức   tăng   trởng   nổi   bật.   Tổng   kim  ngạch xuất khẩu 10 năm qua đã tăng bình quân hàng năm 18,2%, tăng gấp   5,3 lần so với năm 1990. Tốc độ  tăng trởng giá trị  nhập khẩu bình quân  hàng năm 10 năm qua là 17,5%. Tổng giá trị xuất nhập khẩu năm 2000 đã t ­ ơng đơng tổng GDP. Vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài (FDI) đã tăng rất đáng kể. Tính đến quý  I năm 1999 đã có 2624 dự án đợc cấp giấy phép đầu t với tổng vốn đăng ký  là 35,8 tỷ USD, nếu tính cả vốn bổ sung là 40,3 tỷ USD. Trong 10 năm qua,  vốn FDI đã chiếm khoảng 28% tổng vốn đầu t toàn xã hội. 11
  12. Thứ  hai, cơ  cấu kinh tế  đã có những chuyển biến tích cực.  Tỷ  trọng  nông, lâm, ng  nghiệp trong GDP đã giảm từ  38,7% năm 1990 xuống còn  25,4% năm 1999; công nghiệp và xây dựng đã tăng từ  22,6% lên 34,9%;  dịch vụ từ 35,7 lên 40,1%. Trong nông nghiệp, cơ cấu cây trồng và vật nuôi đợc dịch chuyển theo  hớng tăng tỷ  trọng một số  cây công nghiệp và ăn quả  có tiềm năng xuất   khẩu và sức cạnh tranh quốc tế nh  cà phê, điều, chè, tiêu, rau quả, cao su...,   tốc độ phát triển chăn nuôi tăng nhanh hơn trồng trọt. Trong công nghiệp, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ  cao đã đợc xây đựng, nhiều ngành công nghiệp mới đã đợc hình thành nh ô  tô, xe gắn máy, điện tử... Các ngành dịch vụ  phát triển, đặc biệt là ngành bu chính viễn thông,  du lịch, thơng mại... đã nâng đợc tỷ trọng lên trên 40% GDP. Cơ cấu vùng kinh tế đã thay đòi theo hớng tập trung phát triển ba vùng  trọng điểm ­ Hồ Chí Minh ­ Vũng Tàu, Hà Nội ­ Hải Phòng ­ Quảng Ninh,   Đà Nẵng ­ Quảng Ngãi, đồng thời đã dành sự quan tâm cần thiết tới những  miền núi, vùng xa, vùng sâu, những xã nghèo. Cơ cấu vốn đầu t phát triển đã chuyển từ u tiên phát triển công nghiệp  nặng sang  u tiên nhiều hơn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát  triển kết cấu hạ tầng, các ngành xuất khẩu, các lĩnh vực giáo dục, y tế, xã  hội. Trong thời kỳ 1991­2000, vốn đầu t cho nông nghiệp và nông thôn tăng  bình quân hàng năm là 22,9%, vốn đầu t phát triển cho kết cấu hạ tầng giao  thông vận tải, thông tin liên lạc đã tăng bình quân hàng năm là 24,5%, vốn  đầu t  phát triển cho các ngành công nghiệp tăng bình quân hàng lăm là  27,1%, vốn đầu t cho lĩnh vực khoa học công nghệ giáo dục, đào tạo, y tế  và văn hoá đã tăng bình quân hàng năm là 23,6%. Thứ ba, các vấn đề xã hội bức xúc đã có những chuyển biến tích cực. 12
  13. Mức sống của dân c cả  thành thị  và nông thôn nhìn chung đã đợc cải  thiện một bớc rõ rệt thể  hiện trên các mặt: GDP theo đầu ngời: trong 10  năm qua đã tăng 1,8 lần thu nhập bình quân mỗi ngời 1 tháng đã tăng 3,2  lần. Số học sinh đi học các cấp học khác nhau từ tiểu học đến đại học đã   tăng khoảng 2,3 ­ 4,3 lần trong 10 năm qua; chỉ số HDI đã đợc nâng lên từ  thứ 122/174 nớc năm 1995 lên 110/174 nớc năm 1999. Tỷ  lệ  tăng dân số  năm 1988 là 2,28% đã giảm xuống còn 1,53% năm  2000; năm 1998 Việt Nam đã đợc Liên hợp quốc tặng giải thởng về  công  tác dân số. Công tác chăm sóc sức khỏe của nhân dân đã có nhiều tiến bộ. Năm  1990 tỷ lệ trẻ dới 5 tuổi bị suy dinh dỡng là hơn 50% tỷ lệ chết của trẻ em  dới 1 tuổi là 46%, dới 5 tuổi là 69,5%, tuổi thọ trung bình là 64, chiều cao   trung bình của thanh niên là 1,6m. Đến năm 1998 các chỉ tiêu tơng ứng trên  đây đã đợc cải thiện rõ rệt: 38,9%; 39%, 48,5%, 68 tuổi; 1,62m. Số hộ  đói nghèo đã giảm rõ rệt từ 30,0% năm 1992 xuống còn 10,6%  năm 2000. Đến cuối năm 1998 cả nớc đã có 15 tỉnh thành phố  có tỷ  lệ  hộ  đói nghèo dới 10%; 21 tỉnh có tỷ lệ đói nghèo khoảng 11 ­ 19%. 1.3. Khó khăn và thử  thách khi xây dựng nền kinh tế độc lập tự  chủ Cơ bản nền kinh tế Việt Nam hiện nay lạc hậu về khoa h ọc k ỹ thuật   nhiều chục năm so với các nước công nghiệp phát triển. Sản xuất, xuất  khẩu của ta chủ  yếu gồm các nông khoáng sản thô và các mặt hàng công  nghiệp thứ cấp, khi sản xuất phải nhập khẩu máy và vật tư phụ tùng, nông   nghiệp lệ  thuộc vào phân bón, xăng dầu, thuốc sâu, nông cơ; công nghiệp  lệ  thuộc vào máy vật tư, linh kiện rời. Các nông khoáng sản thô như  gạo,  cao su, cà phê, hàng thuỷ  sản, than đá ­ dầu thô, và các mặt hàng thứ  cấp  khác: hàng may mặc và giầy dép là những mặt hàng xuất khẩu chủ  yếu  Việt Nam vấp phải sự  cạnh tranh rất mạnh của các nước kém mở  mang  13
  14. khác, các hạn định quota nhập khẩu của nước ngoài, giá cả bấp bênh và có   khuynh hướng giảm, thị  trường hạn chế. Trong nhiều năm, gạo, cà phê,  cao su, hàng may mặc của Việt Nam không xuất khẩu được hết trên thị  trường thế  giới, khiến cho giá sụt và làm giảm thu nhập của công nhân,   nông dân trong các ngành liên quan. Trong khi đó, nhập khẩu lại hướng về  máy, các vật tư, linh kiện rời giá đắt và các hàng tiêu dùng cao cấp giá rất   đắt. Tình hình này làm cho vị  thế của ta trên thị  trường quốc tế yếu đi và   dẫn đến nhiều nguy cơ lớn về kinh tế tài chính. Thứ nhất là nguy cơ bán rẻ như cho và mua phải trả giá cao, tỷ lệ giao   hoán bất lợi, xuất phát từ  việc xuất khẩu nông khoáng sản thô giá rẻ  và  nhập khẩu hàng cao cấp giá cao. Sự thiệt thòi triền miên năm này qua năm   khác mỗi năm ước hàng nhiều tỷ USD khiến cho nước ta nghèo càng nghèo  thêm. Thứ hai là nguy cơ siêu đưa đến thâm thủng cán cân thương mại buộc   phải vay tiền nước ngoài. Trong các năm 1995 dến 95 chúng ta nhập siêu  trên dưới 3 tỷ USD, nợ quốc tế tăng khoảng 2­3 tỷ  USD/năm để  trám vào  thâm thủng của cán cân thương mại và các chi phí khác về ngoại tệ. Thứ ba là nợ quốc tế tăng gia với tốc độ nhanh hàng năm đưa đến tình  hình nợ đáo hạn và vốn lời phải trả mỗi năm mỗi tăng. Muốn trả nợ quốc   tế, chỉ có 2 phương pháp: (a) xuất siêu để có dư cân thương mại để trả nợ,   (b) hoặc vay nợ mới để có ngoại tệ trả nợ cũ. Trong thập niên 90, chúng ta   không có xuất siêu vậy phải áp dụng biện pháp vay nợ  mới trả  nợ cũ, cả  vốn lẫn lãi, khiến cho nợ quốc tế tăng gia nhanh theo định luật lãi kép. Nợ  quốc tế, nếu ước hơn 15 tỷ USD thì bằng đến khoảng 50% GDP của nước   ta, ước khoảng 30 tỷ USD. Nợ   quốc  tế  tăng,   đến  một  mức  nào  đó, có  thể  dẫn  đến tình  hình  khủng hoảng tài chính ­ tiền tệ như đã xảy ra tại Thái Lan. Khi ấy, cơ quan  tiền tệ  quốc tế  đã đề  nghị  với Thái Lan những biện pháp "trọn gói" trong   14
  15. đó có nhiều biện pháp mà Thái Lan cho rằng vi phạm nền độc lập tự  chủ  kinh tế quốc gia, nhưng sau đó chính phủ Thái Lan đã buộc phải nhận. Tình  hình nợ  quốc tế  của nước ta so với Thái Lan ít hơn nhiều, nhưng bài học  Thái Lan cho thấy là nợ quốc tế tăng có thể đưa đến việc ngân hàng trung   ương không còn khả  năng thanh toán quốc tế, đặc biệt là các trang trải  nhập khẩu thông thường và lúc bấy giờ  sẽ  xảy ra khủng hoảng tài chính,  tiền tệ. Thứ tư: hội nhập quốc tế giúp Việt Nam tranh thủ kỹ thuật, khoa học,   vốn quốc tế. Tuy nhiên các công ty nước ngoài chỉ đầu tư ở Việt Nam nếu  họ có lợi. Như vậy, chúng ta ở trong thế yếu, chỉ có khả năng hạn chế  họ  bớt lợi mà thôi, nhưng nếu đầu tư mà chỉ thu được lợi ít, họ sẽ ngưng hay   giới hạn lượng đầu tư. Kinh nghiệm chó thấy, trong thập niên 90, những   thiết bị được đầu tư ở Việt Nam, thường là những thiết bị cũ, thị phần các   doanh nghiệp Việt Nam giảm nhanh trong khi thị phần các công ty có vốn  nước ngoài tăng nhanh, nhiều công ty phía Việt Nam có phần hùn khoảng   30% nhờ phần đóng góp mặt bằng, nhà đất đã chuyển thành công ty có vốn   nước ngoài 100%do nhiều lý do, trong số có lý do phía nước ngoài đề nghị  tăng vốn nhưng bên Việt Nam không có khả năng đáp ưúng. Nếu tình hình  này tiếp tục, người nước ngoài sẽ  làm chủ  dần dần hầu hết các doanh   nghiệp lớn  ở  Việt Nam, khi  ấy, sẽ  khó giữ  được độc lập tự  chủ  kinh tế  quốc gia. Sự  phối hợp 4 nguy cơ  trên có khả  năng đưa đến tình hình mất độc  lập tự  chủ  kinh tế, tài chính, tiền tệ, gây ra tình cảnh lệ  thuộc vào nước  ngoài. Đồng chí TBT đã xác định là độc lập tự  chủ kinh tế  là nền tảng cơ  bản bảo đảm sự bền vững của độc lập tự chủ về chính trị, do đó cần phải  có biện pháp xây dựng nền kinh tế tự chủ và chủ động trong việc hội nhập   vào kinh tế quốc tế. 15
  16. 2. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 2.1. Thế nào hội nhập kinh tế quốc tế: Ngày nay hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ  trên mọi châu lục,  chi phối đời sống kinh tế  mọi quốc gia. Hội nhập kinh tế quốc tế là hiện  tượng xảy ra trong quan hệ  giữa các quốc gia. Cách hiểu phổ  biến nhất   hiện nay về  hội nhập kinh tế  là xoá bỏ  sự  khác biệt kinh tế  giữa những   nền kinh tế thuộc các quốc gia khác nhau. 2.2. Bối cảnh quốc tế  và khu vực liên quan tới chủ  trương hội  nhập kinh tế quốc tế ở nước ta: Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ  "mở  rộng quan   hệ  kinh tế  đối ngoại, chủ  động tham gia các tổ  chức quốc tế  và khu vực,   củng cố  và nâng cao vị  thế  nước ta trên trường quốc tế". Đại hội lần thứ  IX khẳng định chủ  trương "phát huy cao độ  nội lực, đồng thời tranh thủ  nguồn lực bên ngoài và chủ  động hội nhập kinh tế  quốc tế  để  phát triển  nhanh, có hiệu quả  và bền vững". Chủ  trương hội nhập được đề  ra trong   bối cảnh tình hình thế  giới và khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp,  khó lường trước về  chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và khoa học ­ kỹ  thuật, với những đặc điểm nổi bật sau : 2.2.1. Trong hơn một thập kỷ  qua, kinh tế  thế  giới nhìn chung phát  triển không ổn định và không đồng đều, về tốc độ thấp hơn thập kỷ trước   (trên 2%/năm so với 3,2%) ; đã xảy ra mấy cuộc khủng hoảng lớn, sâu rộng  hơn cả là cuộc khủng hoảng kinh tế ­ tài chính nổ  ra năm 1997 ; vị  trí các   nước và các khu vực thay đổi theo hướng : kinh tế Mỹ phát triển nhanh và   ổn định liên tục trong nhiều năm và đến 2002 bắt đầu suy giảm ; kinh tế  Tây Âu hiện không còn phát triển nhanh như  các thập kỷ  trước ; kinh tế  Nhật suy thoái chưa có lối ra ; các nước thuộc Liên Xô trước đây và Đông  Âu rơi vào tình trạng suy thoái trầm trọng và kéo dài ; vài năm gần đây đã   tăng trưởng tương đối khá ; trong khi đó kinh tế  Trung Quốc phát triển  16
  17. "ngoạn mục" ; Đông Á và Đông ­ Nam Á phát triển nhanh vào bậc nhất thế  giới trong những thập kỷ  trước, vừa qua đã rơi vào suy thoái và nay đang   hồi phục ; Nam Á và nhất là châu Phi vẫn chưa thoát khỏi tình trạng trì trệ  kéo dài ; kinh tế Mỹ La­tinh có khá hơn song cũng không ổn định.  "Cách mạng khoa học và công nghệ  tiếp tục phát triển với tốc độ  ngày   càng cao, tăng nhanh lực lượng sản xuất,  đồng thời thúc  đẩy quá trình  chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế  và đời sống  xã hội". Dưới tác động của những chiều hướng đó, kinh tế  thế  giới trải   qua những biến đổi về  chất, các ngành công nghệ  cao, đặc biệt là những  lĩnh vực có hàm lượng chất xám cao, nhất là công nghệ  thông tin và sinh  học phát triển nhanh chóng làm thay đổi sâu sắc cơ cấu sản xuất, tiêu dùng,  trao đổi... cũng như phương thức làm ăn và cả sinh hoạt, giao lưu. 2.2.2. Xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa phát triển ngày càng nhanh Vòng đàm phán U­ru­goay kết thúc, Hiệp định Ma­ra­két được ký kết,  Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) ra đời từ 01­ 01­1995 thu hút tới 136  và nay là 144 quốc gia và lãnh thổ, chiếm gần 100% kim ngạch buôn bán  quốc tế, theo hướng giảm mạnh hàng rào quan thuế và phi quan thuế, mở  cửa thị trường hàng hóa, đầu tư, dịch vụ ... Bên cạnh sự ra đời của WTO,  xuất hiện rất nhiều tổ chức tiểu vùng, khu vực, liên khu vực như các tam,  tứ giác phát triển, các khu vực mậu dịch tự do (AFTA, NAFTA), những tổ  chức liên kết toàn châu lục (EU) hoặc giữa các châu lục (APEC). Các nước lớn, nhỏ đều dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, theo đuổi  chính sách kinh tế mở. Ngay những nước có tiềm năng và thị trường rộng  lớn như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Mỹ... và cả một số nước vốn "khép  kín", theo mô hình tự cung tự cấp cũng dần dần mở cửa, từng bước hội  nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Mặt khác, cộng đồng thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu : suy  thoái môi trường, bùng nổ dân số, nghèo đói, các bệnh tật hiểm nghèo, các  17
  18. vấn đề xã hội "xuyên quốc gia"..., không một quốc gia riêng lẻ nào có thể  giải quyết được mà cần phải có sự hợp tác đa phương.  Tình hình trên làm nảy sinh và thúc đẩy xu thế hội nhập để phát triển.  Trong xu thế chung đó, các nước công nghiệp phát triển, trước hết là Mỹ,  do có ưu thế về thị trường, nắm được tiến bộ khoa học ­ công nghệ, có  nền kinh tế phát triển cao, đã ra sức thao túng, chi phối thị trường thế giới,  áp đặt điều kiện đối với các nước chậm phát triển hơn, thậm chí dùng  những biện pháp thô bạo như bao vây, cấm vận, trừng phạt, làm thiệt hại  lợi ích của các nước đang phát triển và chậm phát triển. Trước tình hình đó,  các nước đang phát triển đã từng bước tập hợp nhau lại, đấu tranh chống  chính sách cường quyền áp đặt của Mỹ để bảo vệ lợi ích của mình vì một  trật tự kinh tế quốc tế bình đẳng, công bằng. Điều đó chứng tỏ xu thế hội  nhập phản ánh cục diện vừa đẩy mạnh hợp tác, vừa đấu tranh khốc liệt. 2.2.3. Ở khu vực Đông­Nam Á đã diễn ra nhiều biến đổi sâu sắc.  Sau nhiều thập kỷ chiến tranh, đối đầu, Đông­Nam Á đã có hòa bình,  tuy còn tiềm  ẩn một số nhân tố có thể gây bất ổn định, xu thế  hợp tác để  phát triển không ngừng gia tăng. Mặc dù trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế  ­ tài chính trầm trọng thời gian 1997­1998, song  đây vẫn là khu vực có   nhiều tiềm năng do vị  trí địa ­ chính trị  và địa ­ kinh tế  của mình, dung   lượng thị trường lớn, tài nguyên phong phú, lao động dồi dào, được đào tạo  tốt, có quan hệ quốc tế rộng rãi. Toàn bộ tình hình trên đem lại nhiều thuận lợi to lớn, đồng thời cũng  đặt ra nhiều thách thức gay gắt đối với nước ta trong quá trình phát triển  đất nước nói chung và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng. 2.3. Những kết quả  đạt được khi Việt Nam tham gia quá trình  hội nhập kinh tế quốc tế Quá trình hội nhập với nền kinh tế quốc tế, mở rộng kinh tế đối  ngoại thời gian qua đã mang lại cho chúng ta những kết quả quan trọng :  18
  19. 2.3.1. Chúng ta đã làm thất bại chính sách bao vây cấm vận, cô lập   nước ta của các thế  lực thù địch, tạo dựng được môi trường quốc tế, khu  vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế  nước ta trên chính trường và thương trường thế giới. 2.3.2. Không những chúng ta đã khắc phục được tình trạng khủng   hoảng thị trường do Liên Xô và hệ thống xã hội chủ  nghĩa thế  giới tan rã   gây nên, mà còn mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu. Trong quá trình hội nhập, chúng ta đã nhanh chóng mở rộng xuất nhập  khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, tạo thêm việc làm, tăng thu   ngân sách. Nếu năm 1990 kim ngạch xuất khẩu mới đạt 2,404 tỷ  USD và  nhập khẩu 2,752 tỷ USD thì năm 2001, kim ngạch xuất khẩu đã đạt 15,1 tỷ  USD (nếu tính cả  dịch vụ  thì đạt 17,6 tỷ  USD, tăng trung bình trên 20%  mỗi năm, có năm tăng 30% ; riêng năm 2001 do  ảnh hưởng của tình hình  kinh tế  khó khăn trên thế  giới và  ở  khu vực và giá cả  các mặt hàng xuất  khẩu chủ yếu giảm mạnh, nên xuất khẩu chỉ tăng gần 5%. 2.3.3. Thu hút được một nguồn lớn đầu tư  trực tiếp của nước ngoài   (FDI), bổ  sung cho nguồn vốn trong nước, kết hợp nội lực với ngoại lực,   tạo được những thành tựu kinh tế to lớn, quan trọng. Tháng 12­1987, chúng ta  đã ban hành Luật  Đầu tư  trực  tiếp nước   ngoài. Từ đó đến nay đã thu hút được trên 42 tỷ USD vốn đầu tư, với trên 3  000 dự án, đã thực hiện khoảng 21 tỷ USD trong số đó. Nguồn đầu tư trực  tiếp của nước ngoài giữ  một vị  trí quan trọng trong nền kinh tế  nước ta :   gần 30% vốn đầu tư  xã hội, 35% giá trị  sản xuất công nghiệp, 20% xuất   khẩu, giải quyết việc làm cho khoảng 40 vạn lao động trực tiếp và hàng  chục vạn lao động gián tiếp. 2.3.4. Tranh thủ  được nguồn viện trợ  phát triển chính thức (ODA)   ngày càng lớn, đồng thời giảm đáng kể nợ nước ngoài. Từ  năm 1993, hằng năm đều có hội nghị  các nhà tài trợ  cho nước ta   gồm một số nước và một số định chế  tài chính ­ tiền tệ quốc tế. Cho đến   19
  20. nay, các nhà tài trợ đã cam kết dành cho nước ta gần 20 tỷ USD, chủ yếu là   cho vay  ưu đãi với lãi suất từ  0,75% đến 2,5% tùy theo mỗi đối tác ; một  phần là viện trợ không hoàn lại. 2.3.5. Tiếp thu khoa học và công nghệ, kỹ năng quản lý, góp phần đào   tạo một đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh năng động, sáng tạo. Quá trình hội nhập vào nền kinh tế  quốc tế  đã tạo cơ  hội để  Việt   Nam tiếp cận với những thành quả  của cuộc cách mạng khoa học ­ công  nghệ   đang phát  triển mạnh mẽ  trên thế  giới.  Nhiều công nghệ  và  dây  chuyền sản xuất hiện đại được sử  dụng đã tạo nên bước phát triển mới   trong các ngành sản xuất. Đồng thời, thông qua các dự  án liên doanh hợp  tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp nhận được nhiều   kinh nghiệm quản lý tiên tiến. 2.3.6. Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh   tế  vào môi trường cạnh tranh, thúc đẩy chuyển dịch cơ  cấu kinh tế, nâng   cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng kinh tế đối ngoại,   nhiều doanh nghiệp đã nỗ  lực đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, nâng  cao năng suất và chất lượng, không ngừng vươn lên trong cạnh tranh để  tồn tại và phát triển ; khả năng cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp đã được  nâng lên ; đã có hàng trăm doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn ISO­9000. Một tư  duy mới, một nếp làm ăn mới, lấy hiệu quả  sản  xuất và kinh doanh làm thước đo, một đội ngũ các nhà doanh nghiệp mới  năng động, sáng tạo có kiến thức quản lý đang hình thành. 2.4. Những mặt yếu kém và tồn tại khi Việt Nam tham gia vào  quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Tuy nhiên, qua quá trình hội nhập kinh tế  quốc tế, chúng ta cũng bộc  lộ nhiều mặt yếu kém : 20

 

TOP Download

Tài liệu đề nghị cho bạn:

popupslide2=3Array ( )