Tiểu luận Triết học số 23 - Phép biện chứng duy vật về mối liên hệ phổ biến
Tiểu luận cung cấp cho người học các kiến thức: Tiểu luận triết học, triết học Mac Lenin, tri thức trong đời sông-xã hội, phép biện chứng duy vật về mối liên hệ phổ biến,... » Xem thêm
Tóm tắt nội dung tài liệu
- LỜI GIỚI THIỆU
Trong xu thế toàn cầu hoá quốc tế hoá hiện nay, các quốc gia trên thế
giới ở mức độ này hay mức độ khác đều tuỳ thuộc lẫn nhau, có quan hệ
qua lại với nhau. Vì thế nước nào đóng cửa với thế giới là đi ngược lại xu
thế của thời đại và khó tránh khỏi bị rơi vào lạc hậu, trái lại mở cửa hội
nhập kinh tế quốc tế tuy có phải trả giá nhất định song đó là yêu cầu tất
yếu hướng tới sự phát triển của mỗi nước, mỗi quốc gia.
Đứng trước yêu cầu ngày càng cấp bách đó, Đại hội Đảng IX đã đưa
ra văn kiện về vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập
kinh tế quốc tế. Trong bối cảnh hiện nay đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là hoàn toàn đúng
đắn và chính xác. Hai mặt đó có mối quan hệ biện chứng với nhau, bổ sung
cho nhau nhằm phát triển nền kinh tế nước ta ngày càng vững mạnh theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến tôi viết bài tiểu
luận này với mong muốn mọi người có một cách nhìn sâu sắc hơn, cặn kẽ
hơn, toàn diện hơn về những nguy cơ thách thức cũng như thời cơ khi
chúng ta tham gia vào quá trình hội nhập kết hợp với xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ, và ảnh hưởng qua lại giữa việc xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong khuôn khổ hạn hẹp của một bài tiểu luận tôi không thể trình
bày tất cả các vấn đề liên quan đến việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ và hội nhập kinh tế quốc tế mà chỉ có thể đi sâu vào nghiên cứu phân
tích mối quan hệ giữa chúng đồng thời đưa ra những giải pháp, những kiến
nghị nhằm góp phần hoàn thiện đường lối xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
1
- CHƯƠNG I
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
1. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT LÀ KHOA HỌC VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ
BIẾN.
1.1. Phép biện chứng duy vật
Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định bản chất vật
chất, tính thống nhất vật chất của thế giới, mà còn khẳng định các sự vật,
hiện tượng trong thế giới luôn tồn tại trong sự liên hệ, trong sự vận động
và phát triển không ngừng theo những quy luật vốn có của nó. Làm sáng tỏ
những vấn đề đó là nội dung cơ bản của phép biện chứng. Chính vì vậy,
Ph.Ănghen đã khẳng định rằng phép biện chứng là lý luận về mối liên hệ
phổ biến, là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động
và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy. V.I. Lênin
nhấn mạnh thêm: Phép biện chứng là học thuyết sâu sắc nhất, không phiến
diện về sự phát triển.
1.2. Nội dung của phép biện chứng duy vật
1.2.1. Hai nguyên lý cơ bản:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Nguyên lý về sự phát triển
1.2.2. Các cặp phạm trù cơ bản:
Cái riêng cái chung
Bản chất hiện tượng
Tất nhiên ngẫu nhiên
Nội dung hình thức
Nguyên nhân kết quả
Khả năng hiện tượng
1.2.3. Ba quy luật cơ bản:
2
- Từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và
ngược lại.
Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Quy luật phủ định của phủ định.
3
- 2. MỘT TRONG HAI NGUYÊN LÝ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
Trên cơ sở kế thừa các giá trị về tư tưởng biện chứng trong kho tàng
lý luận của nhân loại, đồng thời khái quát những thành tựu mới nhất của
khoa học tự nhiên thế kỷ XIX (khoa học về các quá trình, về nguồn gốc,
về mối liên hệ và sự phát triển) phép biện chứng duy vật đã phát hiện ra
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật và hiện tượng trong thế
giới, coi đây là đặc trưng cơ bản của phép biện chứng duy vật.
2.1. Khái niệm:
Liên hệ: Là sự quy định lẫn nhau , tác động lẫn nhau giữa các yếu tố
trong cùng một sự vật hoặc giữa các sự vật hiện tượng của nhau.
Liên hệ phổ biến: Là những mối liên hệ tồn tại một cách phổ biến
cả trong tự nhiên xã hội và tư duy. Mối liên hệ phổ biến mang tính chất
bao quát, nó tồn tại thông qua những mối liên hệ đặc thù của sự vật, nó
phản ánh tính đa dạng và tính thống nhất của thế giới.
2.2. Nội dung nguyên lý:
Triết học Mác khẳng định mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều
nằm trong mối liên hệ phổ biến, không có sự vật hiện tượng nào tồn tại
một cách biệt lập mà chúng tác động đến nhau ràng buộc quyết định và
chuyển hoá lẫn nhau. Các mối liên hệ trong tính tổng thể của nó quy định
sự tồn tại vận động, biến đổi của sự vật. Khi các mối liên hệ thay đổi tất
yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi sự vật.
2.3. Ý nghĩa của nguyên lý
2.3.1. Cơ sở khoa học của quan điểm toàn diện:
Trong nhận thức và hoạt động phải xem xét sự vật trong tính toàn
vẹn của nhiều mối liên hệ, nhiều mặt, nhiều yếu tố vốn có của nó kể cả
các quá trình, các giai đoạn phát triển của sự vật cả trong quá khứ hiện tại
và tương lai. Có như vậy mới nắm được thực chất của sự vật. Khi tuân
4
- thủ nguyên tắc này chủ thể tránh được sai lầm cực đoan phiến diện một
chiều.
Không được đồng nhất và san bằng vai trò của các mối liên hệ của
các mặt sự vật. Phải phản ánh đúng vai trò của từng mặt, từng mối liên hệ.
Phải rút ra được những mối liên hệ bản chất nhất chủ yếu của sự vật khi
tuân thủ nguyên tắc này con người sẽ tránh được sai lầm nguỵ biện và
chiết trung.
2.3.2. Cơ sở khoa học của quan điểm lịch sử cụ thể
Mọi sự vật hiện tượng trong thế giới vật chất tồn tại vận động phát
triển bao giờ cũng diễn ra trong những hoàn cảnh cụ thể, trong không gian
và thời gian xác định.
Điều kiện: Không gian và thời gian có ảnh hưởng tới đặc điểm tính
chất sự vật. Cùng là một sự vật nhưng ở trong những điều kiện hoàn cảnh
khác nhau sẽ có những tính chất khác nhau.
Yêu cầu:
Khi nghiên cứu xem xét sự vật hiện tượng phải đặt nó trong hoàn
cảnh cụ thể, trong không gian thời gian xác định mà nó đang tồn tại vận
động và phát triển đồng thời phải phân tích vạch ra ảnh hưởng của điều
kiện hoàn cảnh của môi trường đối với sự tồn tại của sự vật, đối với tính
chất của sự vật và đối với xu hướng vận động và phát triển của nó.
Khi vận dụng một lý luận nào đó vào trong thực tiễn cần phải tính
đến điều kiện cụ thể của nơi vận dụng tránh bệnh giáo điều dập khuôn,
máy móc, chung chung.
3. TẠI SAO PHẢI VẬN DỤNG PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ
BIẾN VÀO PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC
LẬP TỰ CHỦ VỚI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
Sau khi nghiên cứu kỹ phép biện chứng duy vật về mối liên hệ phổ
biên ta dễ ràng nhận ra rằng sự vật hiện tượng luôn có mối liên hệ mật
thiết với nhau chuyển hoá lẫn nhau hay nói cách khác mọi sự vật hiện
5
- tượng tồn tại phải có mối liên hệ với các sự vật hiện tượng khác chứ
không thể tồn tại một cách tách biệt độc lập. Sở dĩ các sự vật hiện tượng
có mối liên hệ với nhau là vì chúng là biểu hiện của vật chất vận động. Có
nguồn gốc chung từ vật động mà khi sự vận động có nghĩa là có mối liên
hệ và các mối liên hệ của sự vật là cái khát quan vốn có của sự vật. Chính
vì vậy khi xem xét việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ chúng ta
không thể tách rời khỏi việc hội nhập kinh tế quốc tế và ngược lại. Hơn
nữa theo quan điểm toàn diện khi xem xét một sự việc hiện tượng mà cụ
thể ở đây việc xây dựng độc lập tự chủ chúng ta phải xem xét nó trong
tính toàn vẹn của nhiều mối liên hệ khác nhau, nhiều mặt khác nhau mà cụ
thể đây là ảnh hưởng của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với
hội nhập kinh tế quốc tế và ngược lại. Có như vậy chúng ta mới nắm
được thực chất của sự vật mới tránh được những sai lầm cực đoan phiến
diện một chiều. Đặc biệt đây lại là những vấn đề rất cấp bách đặt ra đối
với chúng ta khi tham gia quá trình toàn cầu hoá, quốc tế hoá. Chỉ có thể
dựa trên nguyên lý mối liên hệ phổ biến mới có thể giúp chúng ta nhìn sâu
hơn, hiểu sâu hơn về vấn đề mà mình đang nghiên cứu. Hơn nữa cũng theo
quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét một sự vật hiện tượng nào đó ta phải
đặt nó trong hoàn cảnh cụ thể không gian cụ thể. Vấn đề chúng ta đang
nghiên cứu ở đây cần được đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, tình
hình kinh tế nước ta hiện nay để thấy rõ hơn được ảnh hưởng của tình
hình thế giới, tình hình trong khu vực, tình hình trong nước đối với việc xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ kết hợp với hội nhập kinh tế quốc tế.
Chính vì vậy dựa trên nguyên lý về mối liên hệ phổ biến sẽ giúp chúng ta
có một cách nhìn cặn kẽ hơn, tổng quát hơn. Chẳng hạn liệu hội nhập kinh
tế quốc tế có phải là một xu thế tất yếu không, hội nhập có phải là hoà tan
hay không, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ như thế nào cho phù hợp
với tình hình hiện nay, phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế…
Tất cả những vấn đề đó chỉ có thể giải đáp khi chúng ta hiểu rõ hơn về
6
- vấn đề chúng ta đang nghiên cứu dựa trên nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến. Từ đó ta có thể thấy rõ hơn tâm quan trọng của phép biện chứng mối
liên hệ phổ biến.
Ở chương II, chương III chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu rõ hơn, cặn kẽ
hơn về mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập
kinh tế quốc tế trên cơ sở phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến.
7
- CHƯƠNG II
XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ
VỚI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC
1. XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ
Có ý kiến cho rằng, trong điều kiện “toàn cầu hóa” nền kinh tế, mở
cửa hội nhập mà lại đặt vấn đề xây dựng kinh tế độc lập tự chủ là thiếu
nhạy bén, không thức thời, thậm chí là bảo thủ, tư duy kiểu cũ. Thế giới
bây giờ là một thị trường thống nhất, cần thứ gì thì mua, thiếu tiền thì đi
vay, sao lại chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ (?!)
Nói như vậy mới nghe qua thì thấy có vẻ có lý, nhưng nếu suy ngẫm
kỹ thì thấy không có cơ sở khoa học, vì nó quá ư giản đơn và phiến diện.
Chúng ta biết rằng, độc lập tự chủ là một xu thế phát triển của thế giới.
Trong điều kiện “toàn cầu hóa”, liên doanh, liên kết rất đa dạng và phức
tạp như hiện nay lại càng phải giữ vững tính độc lập tự chủ.
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không chỉ xuất phát từ quan
điểm, đường lối chính trị độc lập tự chủ mà còn là đòi hỏi của thực tiễn,
nhằm bảo đảm độc lập tự chủ vững chắc về chính trị, bảo đảm phát triển
bền vững và có hiệu quả cho chính ngay nền kinh tế, cho việc mở cửa, hội
nhập kinh tế quốc tế. Khi đã có độc lập tự chủ về chính trị thì nội dung cơ
bản của độc lập tự chủ của một quốc gia là có xây dựng được nền kinh tế
độc lập tự chủ hay không. Đây là kinh nghiệm của nước ta và cũng là kinh
nghiệm của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Vả chăng, nước ta
phát triển kinh tế để đi lên chủ nghĩa xã hội, bối cảnh quốc tế có nhiều
diễn biến phức tạp, các lực lượng chống đối chủ nghĩa xã hội thường
xuyên tìm cách ngăn cản và chống phá sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta. Nếu không xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ
thì dễ bị lệ thuộc, bị các thế lực xấu, thù địch lợi dụng vấn đề kinh tế để
8
- lôi kéo, hoặc khống chế, ép buộc chúng ta thay đổi chế độ chính trị, đi
chệch quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, có xây dựng được nền
kinh tế độc lập tự chủ thì mới tạo được cơ sở kinh tế, cơ sở vật chất kỹ
thuật của chế độ chính trị độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ về kinh tế là
nền tảng vật chất để bảo đảm cho sự độc lập tự chủ bền vững về chính
trị. Không thể có độc lập tự chủ về chính trị nếu bị lệ thuộc về kinh tế.
Độc lập tự chủ về kinh tế được đặt trong mối quan hệ biện chứng với độc
lập tự chủ về các mặt khác sẽ tạo ra sự độc lập tự chủ và sức mạnh tổng
hợp của một quốc gia.
1.1. Thế nào là nền kinh tế độc lập tự chủ ?
Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế không bị lệ thuộc, phụ
thuộc vào nước khác, người khác, hoặc vào một tổ chức kinh tế nào đó về
đường lối, chính sách phát triển, không bị bất cứ ai dùng những điều kiện
kinh tế, tài chính, thương mại, viện trợ... để áp đặt, khống chế, làm tổn hại
chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân tộc.
Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế trước những biến động của
thị trường, trước sự khủng hoảng kinh tế tài chính ở bên ngoài, nó vẫn có
khả năng cơ bản duy trì sự ổn định và phát triển; trước sự bao vây, cô lập
và chống phá của các thế lực thù địch, nó vẫn có khả năng đứng vững,
không bị sụp đổ, không bị rối loạn.
Bảo đảm độc lập tự chủ về kinh tế cũng có nghĩa là bảo đảm vững
chắc định hướng xã hội chủ nghĩa và giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa
dân tộc trong công cuộc phát triển kinh tế, tiến hành công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Không phải chờ đến khi có trình độ phát triển cao mới
đặt vấn đề giữ vững độc lập tự chủ, mà ngay từ đầu, ngay bây giờ đã phải
bảo đảm yêu cầu cơ bản về độc lập tự chủ, trước hết là về đường lối
chính trị, các nguyên tắc cơ bản về phát triển kinh tế. Đương nhiên, xây
9
- dựng kinh tế độc lập tự chủ là một quá trình lâu dài, đi từ thấp đến cao,
ngày càng hoàn chỉnh, ngày càng bền vững.
Trong thời đại ngày nay, nói độc lập tự chủ về kinh tế không ai hiểu
đó là một nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp, mà đặt trong mối quan hệ
biện chứng với mở cửa, hội nhập, chủ động tham gia sự giao lưu, hợp tác
và cạnh tranh quốc tế trên cơ sở phát huy tốt nhất nội lực và lợi thế so sánh
của quốc gia, từng bước xây dựng một cơ cấu sản xuất đáp ứng được cơ
bản nhu cầu thiết yếu về đời sống của nhân dân và có khả năng trang bị lại
ở mức cần thiết cho nhu cầu phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng an
ninh.
1.2. Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay
Trước hết phải kể đến mức tăng trởng cao.
Tổng sản phẩm trong nớc (GDP) trong thời kỳ 19912000 đã tăng bình
quân hàng năm là 7,4%, theo đó tổng giá trị GDP đạt gấp đôi năm 1990,
GDP theo đầu ngời tăng 1,8 lần.
Nông nghiệp đạt tốc độ tăng trởng khá và toàn diện trên nhiều lĩnh
vực. Giá trị sản lợng toàn ngành tăng bình quân hàng năm 5,6%. Trong đó
nông nghiệp tăng 5,4%, thuỷ sản tăng 9,1%, lâm nghiệp tăng 2,1%.
Nổi bật nhất là sản 1ợng lơng thực tăng bình quân mỗi năm 1,1 triệu
tấn. Sản lợng lơng thực năm 2000 đạt 34 triệu tấn, đa mức lơng thực bình
quân đầu ngời từ 294,9 kg năm 1990 lên trên 436 kg năm 2000. Việt Nam từ
nớc nhập khẩu lơng thực hàng năm, trở thành nớc xuất khẩu gạo thứ hai
thế giới.
Sản lợng của một số cây công nghiệp trong thời kỳ 19992000 đã tăng
khá cao: cà phê tăng 4,7 lần, cao su 4,5 lần, chè tăng 2 lần, mía tăng 3 lần,
bông tăng 9,7 lần.
Sản lợng thuỷ sản tăng bình quân trong 10 năm là 8,85%: Giá trị sản l
ợng công nghiệp tăng bình quân trong 10 năm qua là khoảng 12,8 –
13%/năm
10
- Công nghiệp chế biến đã có tốc dộ tăng trởng khá và đã chiếm tới
60,6% giá trị toàn ngành công nghiệp năm 1999.
Dầu khí có tốc độ tăng trởng cao nhất trong toàn ngành công nghiệp.
Sản lợng dầu thô năm 2000 đã tăng gấp 6 lần so với năm 1990.
Sản lợng điện phát ra năm 2000 so với năm 1990 đã tăng gấp 3 lần,
sản lợng thép cán gấp 16 lần, xi măng gấp 5,3 lần, phân hoá học 4,2 lần,
giầy dép da 14,9 lần, giầy vải 4,9 lần, bột giặt 4,6 lần, đ ờng 3,6 lần, bia
7,3 lần...
Giá trị sản phẩm công nghiệp xuất khẩu tăng trung bình hàng năm là
20%.
Các ngành dịch vụ đã tăng trởng nổi bật trong các ngành thơng mại,
du lịch, bu chính viễn thông.
Giá trị hàng hóa bán ra trên thị trờng trong nớc năm 1999 đã gấp 11,3
lần năm 1990.
Khách du lịch quốc tế từ 1992 đến 1997 đã tăng bình quân hàng năm là
26,5%. Mật độ điện thoại năm 1999 đã tăng 13,8 so với năm 1991 và là nớc
có tốc độ phát triển viễn thông đứng thứ hai thế giới.
Vận chuyển hàng hoá tăng bình quân trong 10 năm qua là 9,2%, vận
chuyển hành khách 14,25%.
Hoạt động xuất khẩu cũng có mức tăng trởng nổi bật. Tổng kim
ngạch xuất khẩu 10 năm qua đã tăng bình quân hàng năm 18,2%, tăng gấp
5,3 lần so với năm 1990. Tốc độ tăng trởng giá trị nhập khẩu bình quân
hàng năm 10 năm qua là 17,5%. Tổng giá trị xuất nhập khẩu năm 2000 đã t
ơng đơng tổng GDP.
Vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài (FDI) đã tăng rất đáng kể. Tính đến quý
I năm 1999 đã có 2624 dự án đợc cấp giấy phép đầu t với tổng vốn đăng ký
là 35,8 tỷ USD, nếu tính cả vốn bổ sung là 40,3 tỷ USD. Trong 10 năm qua,
vốn FDI đã chiếm khoảng 28% tổng vốn đầu t toàn xã hội.
11
- Thứ hai, cơ cấu kinh tế đã có những chuyển biến tích cực. Tỷ trọng
nông, lâm, ng nghiệp trong GDP đã giảm từ 38,7% năm 1990 xuống còn
25,4% năm 1999; công nghiệp và xây dựng đã tăng từ 22,6% lên 34,9%;
dịch vụ từ 35,7 lên 40,1%.
Trong nông nghiệp, cơ cấu cây trồng và vật nuôi đợc dịch chuyển theo
hớng tăng tỷ trọng một số cây công nghiệp và ăn quả có tiềm năng xuất
khẩu và sức cạnh tranh quốc tế nh cà phê, điều, chè, tiêu, rau quả, cao su...,
tốc độ phát triển chăn nuôi tăng nhanh hơn trồng trọt.
Trong công nghiệp, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ
cao đã đợc xây đựng, nhiều ngành công nghiệp mới đã đợc hình thành nh ô
tô, xe gắn máy, điện tử...
Các ngành dịch vụ phát triển, đặc biệt là ngành bu chính viễn thông,
du lịch, thơng mại... đã nâng đợc tỷ trọng lên trên 40% GDP.
Cơ cấu vùng kinh tế đã thay đòi theo hớng tập trung phát triển ba vùng
trọng điểm Hồ Chí Minh Vũng Tàu, Hà Nội Hải Phòng Quảng Ninh,
Đà Nẵng Quảng Ngãi, đồng thời đã dành sự quan tâm cần thiết tới những
miền núi, vùng xa, vùng sâu, những xã nghèo.
Cơ cấu vốn đầu t phát triển đã chuyển từ u tiên phát triển công nghiệp
nặng sang u tiên nhiều hơn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát
triển kết cấu hạ tầng, các ngành xuất khẩu, các lĩnh vực giáo dục, y tế, xã
hội.
Trong thời kỳ 19912000, vốn đầu t cho nông nghiệp và nông thôn tăng
bình quân hàng năm là 22,9%, vốn đầu t phát triển cho kết cấu hạ tầng giao
thông vận tải, thông tin liên lạc đã tăng bình quân hàng năm là 24,5%, vốn
đầu t phát triển cho các ngành công nghiệp tăng bình quân hàng lăm là
27,1%, vốn đầu t cho lĩnh vực khoa học công nghệ giáo dục, đào tạo, y tế
và văn hoá đã tăng bình quân hàng năm là 23,6%.
Thứ ba, các vấn đề xã hội bức xúc đã có những chuyển biến tích cực.
12
- Mức sống của dân c cả thành thị và nông thôn nhìn chung đã đợc cải
thiện một bớc rõ rệt thể hiện trên các mặt: GDP theo đầu ngời: trong 10
năm qua đã tăng 1,8 lần thu nhập bình quân mỗi ngời 1 tháng đã tăng 3,2
lần. Số học sinh đi học các cấp học khác nhau từ tiểu học đến đại học đã
tăng khoảng 2,3 4,3 lần trong 10 năm qua; chỉ số HDI đã đợc nâng lên từ
thứ 122/174 nớc năm 1995 lên 110/174 nớc năm 1999.
Tỷ lệ tăng dân số năm 1988 là 2,28% đã giảm xuống còn 1,53% năm
2000; năm 1998 Việt Nam đã đợc Liên hợp quốc tặng giải thởng về công
tác dân số.
Công tác chăm sóc sức khỏe của nhân dân đã có nhiều tiến bộ. Năm
1990 tỷ lệ trẻ dới 5 tuổi bị suy dinh dỡng là hơn 50% tỷ lệ chết của trẻ em
dới 1 tuổi là 46%, dới 5 tuổi là 69,5%, tuổi thọ trung bình là 64, chiều cao
trung bình của thanh niên là 1,6m. Đến năm 1998 các chỉ tiêu tơng ứng trên
đây đã đợc cải thiện rõ rệt: 38,9%; 39%, 48,5%, 68 tuổi; 1,62m.
Số hộ đói nghèo đã giảm rõ rệt từ 30,0% năm 1992 xuống còn 10,6%
năm 2000. Đến cuối năm 1998 cả nớc đã có 15 tỉnh thành phố có tỷ lệ hộ
đói nghèo dới 10%; 21 tỉnh có tỷ lệ đói nghèo khoảng 11 19%.
1.3. Khó khăn và thử thách khi xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ
Cơ bản nền kinh tế Việt Nam hiện nay lạc hậu về khoa h ọc k ỹ thuật
nhiều chục năm so với các nước công nghiệp phát triển. Sản xuất, xuất
khẩu của ta chủ yếu gồm các nông khoáng sản thô và các mặt hàng công
nghiệp thứ cấp, khi sản xuất phải nhập khẩu máy và vật tư phụ tùng, nông
nghiệp lệ thuộc vào phân bón, xăng dầu, thuốc sâu, nông cơ; công nghiệp
lệ thuộc vào máy vật tư, linh kiện rời. Các nông khoáng sản thô như gạo,
cao su, cà phê, hàng thuỷ sản, than đá dầu thô, và các mặt hàng thứ cấp
khác: hàng may mặc và giầy dép là những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu
Việt Nam vấp phải sự cạnh tranh rất mạnh của các nước kém mở mang
13
- khác, các hạn định quota nhập khẩu của nước ngoài, giá cả bấp bênh và có
khuynh hướng giảm, thị trường hạn chế. Trong nhiều năm, gạo, cà phê,
cao su, hàng may mặc của Việt Nam không xuất khẩu được hết trên thị
trường thế giới, khiến cho giá sụt và làm giảm thu nhập của công nhân,
nông dân trong các ngành liên quan. Trong khi đó, nhập khẩu lại hướng về
máy, các vật tư, linh kiện rời giá đắt và các hàng tiêu dùng cao cấp giá rất
đắt.
Tình hình này làm cho vị thế của ta trên thị trường quốc tế yếu đi và
dẫn đến nhiều nguy cơ lớn về kinh tế tài chính.
Thứ nhất là nguy cơ bán rẻ như cho và mua phải trả giá cao, tỷ lệ giao
hoán bất lợi, xuất phát từ việc xuất khẩu nông khoáng sản thô giá rẻ và
nhập khẩu hàng cao cấp giá cao. Sự thiệt thòi triền miên năm này qua năm
khác mỗi năm ước hàng nhiều tỷ USD khiến cho nước ta nghèo càng nghèo
thêm.
Thứ hai là nguy cơ siêu đưa đến thâm thủng cán cân thương mại buộc
phải vay tiền nước ngoài. Trong các năm 1995 dến 95 chúng ta nhập siêu
trên dưới 3 tỷ USD, nợ quốc tế tăng khoảng 23 tỷ USD/năm để trám vào
thâm thủng của cán cân thương mại và các chi phí khác về ngoại tệ.
Thứ ba là nợ quốc tế tăng gia với tốc độ nhanh hàng năm đưa đến tình
hình nợ đáo hạn và vốn lời phải trả mỗi năm mỗi tăng. Muốn trả nợ quốc
tế, chỉ có 2 phương pháp: (a) xuất siêu để có dư cân thương mại để trả nợ,
(b) hoặc vay nợ mới để có ngoại tệ trả nợ cũ. Trong thập niên 90, chúng ta
không có xuất siêu vậy phải áp dụng biện pháp vay nợ mới trả nợ cũ, cả
vốn lẫn lãi, khiến cho nợ quốc tế tăng gia nhanh theo định luật lãi kép. Nợ
quốc tế, nếu ước hơn 15 tỷ USD thì bằng đến khoảng 50% GDP của nước
ta, ước khoảng 30 tỷ USD.
Nợ quốc tế tăng, đến một mức nào đó, có thể dẫn đến tình hình
khủng hoảng tài chính tiền tệ như đã xảy ra tại Thái Lan. Khi ấy, cơ quan
tiền tệ quốc tế đã đề nghị với Thái Lan những biện pháp "trọn gói" trong
14
- đó có nhiều biện pháp mà Thái Lan cho rằng vi phạm nền độc lập tự chủ
kinh tế quốc gia, nhưng sau đó chính phủ Thái Lan đã buộc phải nhận. Tình
hình nợ quốc tế của nước ta so với Thái Lan ít hơn nhiều, nhưng bài học
Thái Lan cho thấy là nợ quốc tế tăng có thể đưa đến việc ngân hàng trung
ương không còn khả năng thanh toán quốc tế, đặc biệt là các trang trải
nhập khẩu thông thường và lúc bấy giờ sẽ xảy ra khủng hoảng tài chính,
tiền tệ.
Thứ tư: hội nhập quốc tế giúp Việt Nam tranh thủ kỹ thuật, khoa học,
vốn quốc tế. Tuy nhiên các công ty nước ngoài chỉ đầu tư ở Việt Nam nếu
họ có lợi. Như vậy, chúng ta ở trong thế yếu, chỉ có khả năng hạn chế họ
bớt lợi mà thôi, nhưng nếu đầu tư mà chỉ thu được lợi ít, họ sẽ ngưng hay
giới hạn lượng đầu tư. Kinh nghiệm chó thấy, trong thập niên 90, những
thiết bị được đầu tư ở Việt Nam, thường là những thiết bị cũ, thị phần các
doanh nghiệp Việt Nam giảm nhanh trong khi thị phần các công ty có vốn
nước ngoài tăng nhanh, nhiều công ty phía Việt Nam có phần hùn khoảng
30% nhờ phần đóng góp mặt bằng, nhà đất đã chuyển thành công ty có vốn
nước ngoài 100%do nhiều lý do, trong số có lý do phía nước ngoài đề nghị
tăng vốn nhưng bên Việt Nam không có khả năng đáp ưúng. Nếu tình hình
này tiếp tục, người nước ngoài sẽ làm chủ dần dần hầu hết các doanh
nghiệp lớn ở Việt Nam, khi ấy, sẽ khó giữ được độc lập tự chủ kinh tế
quốc gia.
Sự phối hợp 4 nguy cơ trên có khả năng đưa đến tình hình mất độc
lập tự chủ kinh tế, tài chính, tiền tệ, gây ra tình cảnh lệ thuộc vào nước
ngoài. Đồng chí TBT đã xác định là độc lập tự chủ kinh tế là nền tảng cơ
bản bảo đảm sự bền vững của độc lập tự chủ về chính trị, do đó cần phải
có biện pháp xây dựng nền kinh tế tự chủ và chủ động trong việc hội nhập
vào kinh tế quốc tế.
15
- 2. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
2.1. Thế nào hội nhập kinh tế quốc tế:
Ngày nay hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trên mọi châu lục,
chi phối đời sống kinh tế mọi quốc gia. Hội nhập kinh tế quốc tế là hiện
tượng xảy ra trong quan hệ giữa các quốc gia. Cách hiểu phổ biến nhất
hiện nay về hội nhập kinh tế là xoá bỏ sự khác biệt kinh tế giữa những
nền kinh tế thuộc các quốc gia khác nhau.
2.2. Bối cảnh quốc tế và khu vực liên quan tới chủ trương hội
nhập kinh tế quốc tế ở nước ta:
Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ "mở rộng quan
hệ kinh tế đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực,
củng cố và nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế". Đại hội lần thứ
IX khẳng định chủ trương "phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ
nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển
nhanh, có hiệu quả và bền vững". Chủ trương hội nhập được đề ra trong
bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp,
khó lường trước về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và khoa học kỹ
thuật, với những đặc điểm nổi bật sau :
2.2.1. Trong hơn một thập kỷ qua, kinh tế thế giới nhìn chung phát
triển không ổn định và không đồng đều, về tốc độ thấp hơn thập kỷ trước
(trên 2%/năm so với 3,2%) ; đã xảy ra mấy cuộc khủng hoảng lớn, sâu rộng
hơn cả là cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính nổ ra năm 1997 ; vị trí các
nước và các khu vực thay đổi theo hướng : kinh tế Mỹ phát triển nhanh và
ổn định liên tục trong nhiều năm và đến 2002 bắt đầu suy giảm ; kinh tế
Tây Âu hiện không còn phát triển nhanh như các thập kỷ trước ; kinh tế
Nhật suy thoái chưa có lối ra ; các nước thuộc Liên Xô trước đây và Đông
Âu rơi vào tình trạng suy thoái trầm trọng và kéo dài ; vài năm gần đây đã
tăng trưởng tương đối khá ; trong khi đó kinh tế Trung Quốc phát triển
16
- "ngoạn mục" ; Đông Á và Đông Nam Á phát triển nhanh vào bậc nhất thế
giới trong những thập kỷ trước, vừa qua đã rơi vào suy thoái và nay đang
hồi phục ; Nam Á và nhất là châu Phi vẫn chưa thoát khỏi tình trạng trì trệ
kéo dài ; kinh tế Mỹ Latinh có khá hơn song cũng không ổn định.
"Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với tốc độ ngày
càng cao, tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống
xã hội". Dưới tác động của những chiều hướng đó, kinh tế thế giới trải
qua những biến đổi về chất, các ngành công nghệ cao, đặc biệt là những
lĩnh vực có hàm lượng chất xám cao, nhất là công nghệ thông tin và sinh
học phát triển nhanh chóng làm thay đổi sâu sắc cơ cấu sản xuất, tiêu dùng,
trao đổi... cũng như phương thức làm ăn và cả sinh hoạt, giao lưu.
2.2.2. Xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa phát triển ngày càng nhanh
Vòng đàm phán Urugoay kết thúc, Hiệp định Marakét được ký kết,
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) ra đời từ 01 011995 thu hút tới 136
và nay là 144 quốc gia và lãnh thổ, chiếm gần 100% kim ngạch buôn bán
quốc tế, theo hướng giảm mạnh hàng rào quan thuế và phi quan thuế, mở
cửa thị trường hàng hóa, đầu tư, dịch vụ ... Bên cạnh sự ra đời của WTO,
xuất hiện rất nhiều tổ chức tiểu vùng, khu vực, liên khu vực như các tam,
tứ giác phát triển, các khu vực mậu dịch tự do (AFTA, NAFTA), những tổ
chức liên kết toàn châu lục (EU) hoặc giữa các châu lục (APEC).
Các nước lớn, nhỏ đều dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, theo đuổi
chính sách kinh tế mở. Ngay những nước có tiềm năng và thị trường rộng
lớn như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Mỹ... và cả một số nước vốn "khép
kín", theo mô hình tự cung tự cấp cũng dần dần mở cửa, từng bước hội
nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Mặt khác, cộng đồng thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu : suy
thoái môi trường, bùng nổ dân số, nghèo đói, các bệnh tật hiểm nghèo, các
17
- vấn đề xã hội "xuyên quốc gia"..., không một quốc gia riêng lẻ nào có thể
giải quyết được mà cần phải có sự hợp tác đa phương.
Tình hình trên làm nảy sinh và thúc đẩy xu thế hội nhập để phát triển.
Trong xu thế chung đó, các nước công nghiệp phát triển, trước hết là Mỹ,
do có ưu thế về thị trường, nắm được tiến bộ khoa học công nghệ, có
nền kinh tế phát triển cao, đã ra sức thao túng, chi phối thị trường thế giới,
áp đặt điều kiện đối với các nước chậm phát triển hơn, thậm chí dùng
những biện pháp thô bạo như bao vây, cấm vận, trừng phạt, làm thiệt hại
lợi ích của các nước đang phát triển và chậm phát triển. Trước tình hình đó,
các nước đang phát triển đã từng bước tập hợp nhau lại, đấu tranh chống
chính sách cường quyền áp đặt của Mỹ để bảo vệ lợi ích của mình vì một
trật tự kinh tế quốc tế bình đẳng, công bằng. Điều đó chứng tỏ xu thế hội
nhập phản ánh cục diện vừa đẩy mạnh hợp tác, vừa đấu tranh khốc liệt.
2.2.3. Ở khu vực ĐôngNam Á đã diễn ra nhiều biến đổi sâu sắc.
Sau nhiều thập kỷ chiến tranh, đối đầu, ĐôngNam Á đã có hòa bình,
tuy còn tiềm ẩn một số nhân tố có thể gây bất ổn định, xu thế hợp tác để
phát triển không ngừng gia tăng. Mặc dù trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế
tài chính trầm trọng thời gian 19971998, song đây vẫn là khu vực có
nhiều tiềm năng do vị trí địa chính trị và địa kinh tế của mình, dung
lượng thị trường lớn, tài nguyên phong phú, lao động dồi dào, được đào tạo
tốt, có quan hệ quốc tế rộng rãi.
Toàn bộ tình hình trên đem lại nhiều thuận lợi to lớn, đồng thời cũng
đặt ra nhiều thách thức gay gắt đối với nước ta trong quá trình phát triển
đất nước nói chung và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng.
2.3. Những kết quả đạt được khi Việt Nam tham gia quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế
Quá trình hội nhập với nền kinh tế quốc tế, mở rộng kinh tế đối
ngoại thời gian qua đã mang lại cho chúng ta những kết quả quan trọng :
18
- 2.3.1. Chúng ta đã làm thất bại chính sách bao vây cấm vận, cô lập
nước ta của các thế lực thù địch, tạo dựng được môi trường quốc tế, khu
vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế
nước ta trên chính trường và thương trường thế giới.
2.3.2. Không những chúng ta đã khắc phục được tình trạng khủng
hoảng thị trường do Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan rã
gây nên, mà còn mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu.
Trong quá trình hội nhập, chúng ta đã nhanh chóng mở rộng xuất nhập
khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, tạo thêm việc làm, tăng thu
ngân sách. Nếu năm 1990 kim ngạch xuất khẩu mới đạt 2,404 tỷ USD và
nhập khẩu 2,752 tỷ USD thì năm 2001, kim ngạch xuất khẩu đã đạt 15,1 tỷ
USD (nếu tính cả dịch vụ thì đạt 17,6 tỷ USD, tăng trung bình trên 20%
mỗi năm, có năm tăng 30% ; riêng năm 2001 do ảnh hưởng của tình hình
kinh tế khó khăn trên thế giới và ở khu vực và giá cả các mặt hàng xuất
khẩu chủ yếu giảm mạnh, nên xuất khẩu chỉ tăng gần 5%.
2.3.3. Thu hút được một nguồn lớn đầu tư trực tiếp của nước ngoài
(FDI), bổ sung cho nguồn vốn trong nước, kết hợp nội lực với ngoại lực,
tạo được những thành tựu kinh tế to lớn, quan trọng.
Tháng 121987, chúng ta đã ban hành Luật Đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Từ đó đến nay đã thu hút được trên 42 tỷ USD vốn đầu tư, với trên 3
000 dự án, đã thực hiện khoảng 21 tỷ USD trong số đó. Nguồn đầu tư trực
tiếp của nước ngoài giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta :
gần 30% vốn đầu tư xã hội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp, 20% xuất
khẩu, giải quyết việc làm cho khoảng 40 vạn lao động trực tiếp và hàng
chục vạn lao động gián tiếp.
2.3.4. Tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA)
ngày càng lớn, đồng thời giảm đáng kể nợ nước ngoài.
Từ năm 1993, hằng năm đều có hội nghị các nhà tài trợ cho nước ta
gồm một số nước và một số định chế tài chính tiền tệ quốc tế. Cho đến
19
- nay, các nhà tài trợ đã cam kết dành cho nước ta gần 20 tỷ USD, chủ yếu là
cho vay ưu đãi với lãi suất từ 0,75% đến 2,5% tùy theo mỗi đối tác ; một
phần là viện trợ không hoàn lại.
2.3.5. Tiếp thu khoa học và công nghệ, kỹ năng quản lý, góp phần đào
tạo một đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh năng động, sáng tạo.
Quá trình hội nhập vào nền kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội để Việt
Nam tiếp cận với những thành quả của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Nhiều công nghệ và dây
chuyền sản xuất hiện đại được sử dụng đã tạo nên bước phát triển mới
trong các ngành sản xuất. Đồng thời, thông qua các dự án liên doanh hợp
tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp nhận được nhiều
kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
2.3.6. Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh
tế vào môi trường cạnh tranh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng kinh tế đối ngoại,
nhiều doanh nghiệp đã nỗ lực đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, nâng
cao năng suất và chất lượng, không ngừng vươn lên trong cạnh tranh để
tồn tại và phát triển ; khả năng cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp đã được
nâng lên ; đã có hàng trăm doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn
ISO9000. Một tư duy mới, một nếp làm ăn mới, lấy hiệu quả sản
xuất và kinh doanh làm thước đo, một đội ngũ các nhà doanh nghiệp mới
năng động, sáng tạo có kiến thức quản lý đang hình thành.
2.4. Những mặt yếu kém và tồn tại khi Việt Nam tham gia vào
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Tuy nhiên, qua quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta cũng bộc
lộ nhiều mặt yếu kém :
20