Giáo trình Di truyền học ADN
ADN, cơ sở phân tử của di truyền. Mỗi sợi ADN là một chuỗi các nucleotide, liên kết với nhau ở chính giữa có dạng như những nấc thang trong một chiếc thang xoắn. Di truyền học là một bộ môn sinh học, nghiên cứu về tính di truyền và biến dị ở các sinh vật. » Xem thêm
Tóm tắt nội dung tài liệu
- Giáo trình
Di truyền học ADN
- Di truyền học
ADN, cơ sở phân tử của di truyền. Mỗi sợi ADN là một chuỗi
các nucleotide, liên kết với nhau ở chính giữa có dạng như những nấc thang trong một
chiếc thang xoắn.
Di truyền học là một bộ môn sinh học, nghiên cứu về tính di truyền và biến dị ở các sinh
vật[1][2]. Kể từ thời tiền sử, thực tế về việc các sinh vật sống thừa hưởng những đặc tính từ
bố mẹ đã được ứng dụng để tăng sản lượng cây trồng và vật nuôi, thông qua quá trình
sinh sản chọn lọc hay chọn lọc nhân tạo. Tuy nhiên, di truyền học hiện đại, tìm hiểu về
quá trình di truyền, chỉ được ra đời vào giữa thế kỷ 19 với những công trình của Gregor
Mendel[3]. Dù không hiểu về nền tảng vật chất của tính di truyền, Mendel vẫn nhận biết
được rằng sinh vật thừa kế những tính trạng theo một cách riêng rẽ - mà trong đó những
đơn vị cơ bản của di truyền được gọi là gen.
Các gen tương ứng với những vùng nằm trong ADN, một cao phân tử được cấu thành từ
bốn loại đơn phân nucleotide; chuỗi những nucleotide này mang thông tin di truyền ở
sinh vật. ADN trong điều kiện tự nhiên có dạng chuỗi xoắn kép, trong đó nucleotide ở
mỗi chuỗi liên kết bổ sung với nhau. Mỗi chuỗi lại có thể hoạt động như một khuôn để
tổng hợp một chuỗi bổ sung mới - đó là cách thức tự nhiên tạo nên những bản sao của
gen mà có thể được di truyền lại.
- Chuỗi nucleotide trong gen có thể được phiên mã và dịch mã trong tế bào để tạo nên
chuỗi các axít amin, hình thành protein; trình tự của các axít amin trong protein cũng
tương ứng với trình tự của các nucleotide trong gen. Trình tự này được biết với tên mã di
truyền. Nó xác định cách thức gập xoắn trong cấu trúc ba chiều của phân tử protein; cấu
trúc này tiếp đó quy định nên chức năng của protein. Những protein sẽ thực hiện hầu hết
các chức năng cần thiết cho sự sống của tế bào. Một thay đổi nhỏ của gen trong phân tử
ADN cũng sẽ dẫn đến thay đổi trình tự axít amin, thay đổi cấu trúc và chức năng của
protein, và điều này có thể tác động không nhỏ lên tế bào cũng như toàn bộ cơ thể sống.
Dù di truyền đóng một vai trò to lớn trong sự hình thành và hoạt động của sinh vật, thì sự
kết hợp giữa yếu tố di truyền và những gì sinh vật trải qua mới xác định được kết quả sau
cùng. Một ví dụ, trong khi gen có thể quy định nên chiều cao của một người, thì dinh
dưỡng và sức khỏe của người đó trong thời niên thiếu cũng có ảnh hưởng không nhỏ.
Lịch sử
Gregor Mendel, "người cha của di truyền học".
Khoa học di truyền được khởi đầu với công trình ứng dụng và lý thuyết của Mendel từ
giữa thế kỷ 19, tuy nhiên trước đó vẫn tồn tại những quan điểm khác nhau về di truyền.
Từ thế kỷ V trước Công nguyên, Hippocrates và Aristotle đã lần lượt đưa ra những lý
thuyết của riêng mình, mà đã có ảnh hưởng không nhỏ đến các học thuyết khác sau đó.
Nếu Hippocrates cho rằng các vật liệu sinh sản ("humor") được thu thập từ tất cả các
- phần của cơ thể và truyền cho thế hệ con, thì Aristotle lại phản bác lại ý kiến này, nêu ra
rằng sự sinh sản bắt nguồn từ chất dinh dưỡng, trên con đường đi tới các bộ phận cơ thể
thì bị chệch tới phần sinh sản, và bản chất các chất này vốn đã quy định cho cấu tạo các
phần cơ thể khác nhau. Ở thời kỳ Mendel sống, một thuyết phổ biến là quan niệm về di
truyền hòa hợp (blending): cho rằng các cá thể thừa kế từ bố mẹ một hỗn hợp pha trộn
các tính trạng, ví dụ như lai cây hoa đỏ với hoa trắng sẽ cho ra hoa hồng[7]. Nghiên cứu
của Mendel đã bác bỏ điều này, chỉ ra tính trạng là sự kết hợp các gen độc lập với nhau
hơn là một hỗn hợp liên tục. Một thuyết khác cũng nhận sự ủng hộ thời đó là sự di truyền
các tính trạng tập nhiễm: tin rằng sinh vật thừa kế những tính trạng đã được biến đổi do
quá trình luyện tập và nhiễm ở bố mẹ. Học thuyết này, chủ yếu gắn với Jean-Baptiste
Lamarck, hiện nay không được di truyền học hiện đại thừa nhận; khi sự tập nhiễm của cá
thể thực tế không ảnh hưởng đến các gen mà chúng truyền cho con cái]. Bên cạnh đó,
Charles Darwin đề ra thuyết pangen (thuyết mầm, pangenesis), có sự tương đồng với
quan niệm của Hippocrates, cho rằng có các gemmule (mầm), tập trung từ các tế bào
trong cơ thể về cơ quan sinh dục để thụ tinh, và con cái sinh ra chịu ảnh hưởng từ cả di
truyền lẫn tính trạng tập nhiễm. Thí nghiệm của Francis Galton kiểm chứng thuyết
pangen của Darwon, cho thấy rằng các gemmule ít nhất không xuất hiện trong máu thỏ.
Đến tận cuối thế kỷ 19, ngay cả sau khi tác phẩm của Mendel đã công bố, hiểu biết của
giới khoa học về tính di truyền vẫn còn ít ỏi và chưa thực sự đúng đắn[11].
Di truyền học Mendel và cổ điển
Quan sát của Morgan về sự di truyền liên kết giới tính của
đột biến mắt trắng ở Drosophila cho phép ông đưa ra giả thuyết rằng gen nằm trên nhiễm
sắc thể.
- Gregor Johann Mendel, một linh mục người Áo sống tại Brünn (Séc), đã tiến hành thí
nghiệm về tính di truyền ở 7 tính trạng trên cây đậu Hà Lan từ năm 1856 đến 1863. Các
nghiên cứu của ông sau đó được công bố trong bài báo "Versuche über
Pflanzenhybriden" (Các thí nghiệm lai ở thực vật) tại Hội Lịch sử Tự nhiên của Brünn
năm 1865. Cách nghiên cứu của ông là cho nhân giống theo từng tính trạng, sử dụng toán
học để đánh giá số lượng và từ đó rút ra quy luật di truyền. Dù các quy luật này chỉ quan
sát được cho số ít tính trạng, nhưng Mendel vẫn tin rằng sự di truyền là riêng rẽ, không
phải tập nhiễm, và tính di truyền của nhiều tính trạng có thể được diễn giải thông qua các
quy luật và tỷ lệ đơn giản.
Tầm quan trọng của công trình Mendel không được nhận biết rộng rãi cho tới năm 1900,
tức sau khi ông mất; trong năm đó, cả ba nhà khoa học Hugo de Vries (Hà Lan), Erich
von Tschermak (Áo) và Carl Correns (Đức) đã nghiên cứu độc lập với nhau và cùng tái
phát hiện các quy luật Mendel. Năm 1900 đánh dấu một mốc khởi đầu mới cho sự phát
triển của di truyền học. Năm 1905, William Bateson, một người ủng hộ Mendel, đã đặt ra
thuật ngữ genetics (di truyền học). (Tính từ genetic, xuất phát từ tiếng Hy Lạp, genesis -
γένεσις, "nguồn gốc" và từ genno γεννώ, "sinh ra", có trước danh từ này và được sử dụng
lần đầu trong sinh học từ năm 1860). Bateson đã phổ biến cách dùng của từ genetics để
miêu tả ngành khoa học nghiên cứu về di truyền trong bài phát biểu khai mạc Hội nghị
Quốc tế lần thứ ba về lai giống cây trồng tại London, Anh năm 1906. Riêng thuật ngữ
gen, vốn đã được Hugo de Vries định nghĩa với tên gọi pangen từ năm 1889 là: "phần tử
nhỏ nhất [đại diện cho] một đặc điểm di truyền", được Wilhelm Johannsen giới thiệu lại
trong các tác phẩm của ông vào hai thập niên sau đó - trong đó ông cũng nêu ra thuật ngữ
kiểu gen (genotype) và kiểu hình (phenotype)
Sau sự tái phát hiện công trình của Mendel, các nhà khoa học đã cố gắng xác định những
phân tử nào trong tế bào đảm nhận tính di truyền. Trước đó, nhiễm sắc thể đã được phát
hiện, và những quan điểm đầu tiên về di truyền nhiễm sắc thể đã được đưa ra, phải kể đến
là thuyết di truyền nhiễm sắc thể của August Weismann năm 1892 và giả thuyết gắn các
nhân tố Mendel với nhiễm sắc thể của Walter Sutton năm 1903. Năm 1910, Thomas Hunt
Morgan khẳng định rằng gen nằm trên nhiễm sắc thể, dựa trên sự quan sát về đột biến
mắt trắng ở ruồi giấm. Năm 1913, một sinh viên của ông, Alfred Sturtevant đã sử dụng
- hiện tượng di truyền liên kết để chỉ ra rằng gen được sắp đặt theo đường thẳng (tuyến
tính) trên nhiễm sắc thể, và xây dựng nên bản đồ liên kết gen đầu tiên.
Di truyền học phân tử
Dù sự tồn tại của gen trên nhiễm sắc thể - hợp thành từ protein và ADN - đã được xác
nhận, tuy nhiên người ta vẫn chưa biết đến cái gì trong hai chất đó đóng vai trò di truyền.
Năm 1928, Frederick Griffith tìm ra hiện tượng biến nạp: những vi khuẩn đã chết có thể
chuyển vật liệu di truyền của chúng để làm biến đổi những vi khuẩn còn sống khác. Năm
1944, Oswald Theodore Avery, Colin McLeod và Maclyn McCarty trực tiếp xác định
ADN là phân tử đảm nhận biến nạp. Tuy nhiên, đến tận năm 1952, thí nghiệm Hershey-
Chase mới cho thấy ADN (chứ không phải protein) là vật liệu di truyền của virus xâm
nhiễm vi khuẩn, cung cấp thêm bằng chứng chứng tỏ ADN là phân tử đảm nhận chức
năng di truyền.
James D. Watson và Francis Crick cho ra đời mô hình cấu trúc ADN năm 1953, sử dụng
công trình tinh thể học tia X của Rosalind Franklin, chứng tỏ rằng ADN có cấu trúc xoắn
kép[30][31]. Mô hình ADN của họ bao gồm hai chuỗi với những nucleotide phía trong, mỗi
một nucleotide liên kết bổ sung với một nucleotide ở chuỗi khác tạo thành hình dạng
giống như thanh ngang trên một chiếc thang xoắn[32]. Cấu trúc này chỉ ra rằng thông tin di
truyền tồn tại trên dãy nucleotide ở mỗi chuỗi ADN, và cũng đưa ra gợi ý về một cách
thức nhân đôi đơn giản: nếu chuỗi kép bị tách rời, chuỗi bổ sung mới có thể được tái
dựng lại từ mỗi chuỗi đơn cũ.
Dù cấu trúc ADN cho thấy được cách thức di truyền, người ta vẫn chưa biết rõ ràng về
cách mà ADN ảnh hưởng lên hoạt động của tế bào. Trước đấy, năm 1941, George Wells
Beadle và Edward Lawrie Tatum đã đề ra thuyết "một gen-một enzym", chứng minh vai
trò điều khiển và điều hòa của gen lên các phản ứng sinh hóa ở mốc bánh mỳ
Neurospora, đồng thời phương pháp của họ - ứng dụng di truyền học vào sinh hóa ở vi
sinh vật - cũng mở ra một phạm vi nghiên cứu mới ngay sau đó. Trong những năm sau
đó, các nhà khoa học đã cố gắng tìm ra cách ADN điều khiển quá trình tổng hợp protein.
- Họ đã khám phá được rằng tế bào đã sử dụng ADN như một khuôn để tạo nên phân tử
ARN thông tin tương ứng. Dãy nucleotide trên ARN thông tin lại tiếp tục được sử dụng
để tạo nên dãy axít amin ở protein; trình tự của dãy nucleotide được dịch mã để tạo thành
dãy axít amin được gọi là mã di truyền. Nó được dựa trên sự sắp xếp những bộ ba bazơ
nitơ không chồng lấn nhau, gọi là codon, mỗi codon mã hóa cho một axít amin. Điều này
lần đầu tiên được miêu tả trong thí nghiệm của Crick, Brenner và các cộng sự năm 1961.
Trong những năm 1961-1966 đã ghi nhận kết quả nỗ lực của các nhà khoa học để giải mã
được toàn bộ 64 codon, chủ yếu là những công trình do nhóm của M. Nirenberg và nhóm
của H. Khorana thực hiện.
Những hiểu biết mới tầm phân tử về tính di truyền đã tạo nên sự bùng nổ trong nghiên
cứu. Một bước phát triển quan trọng là phương pháp xác định trình tự ADN gián đoạn
chuỗi năm 1977 của Frederick Sanger: công nghệ này cho phép các nhà khoa học đọc
được trình tự nucleotide trên một phân tử ADN. Năm 1983, Kary Banks Mullis phát triển
phản ứng chuỗi trùng hợp (PCR), cung cấp một phương pháp nhanh chóng để phân lập và
khuyếch đại một đoạn ADN riêng biệt từ một hỗn hợp. Những cố gắng chung trong Dự
án Bản đồ gen Người và nỗ lực song song của công ty tư nhân Celera Genomics, cũng
như các công nghệ khác, cuối cùng đã thành công trong việc xác định trình tự bộ gen
người vào năm 2003.
Đặc trưng của di truyền
Di truyền riêng rẽ và quy luật Mendel
- Một bảng Punnett mô tả sự lai hai cây đậu Hà Lan dị
hợp tử ở tính trạng hoa màu tía (B) và màu trắng (b).
Ở cấp độ cơ bản nhất, tính di truyền của các sinh vật xuất hiện ở các tính trạng riêng rẽ,
được gọi là gen. Đặc tính này lần đầu được nhận biết bởi Gregor Mendel, khi nghiên cứu
sự phân ly các tính trạng di truyền ở đậu Hà Lan. Trong thí nghiệm nghiên cứu về tính
trạng màu hoa của mình, Mendel quan sát được rằng hoa của mỗi cây đậu Hà Lan có màu
tía hoặc trắng - và không bao giờ có tính trạng trung gian giữa hai màu. Những dạng khác
nhau, riêng biệt của cùng một gen được gọi là allele.
Ở đậu Hà Lan, mỗi gen của mỗi cá thể có hai allele, và cây đậu sẽ thừa hưởng một allele
từ mỗi cây bố mẹ. Nhiều sinh vật khác, bao gồm cả con người, cũng có kiểu di truyền
như vậy. Cá thể mà có hai allele giống nhau ở một gen được gọi là đồng hợp tử ở gen
đấy, còn nếu có hai allele khác nhau thì cá thể gọi là dị hợp tử.
Tập hợp tất cả allele ở một cá thể được gọi là kiểu gen của cá thể đó, còn tập hợp các tính
trạng quan sát được của cá thể được gọi là kiểu hình. Với những cá thể dị hợp tử ở một
gen, thường sẽ có một allele được gọi là trội, bởi đặc tính của nó trội hơn và thể hiện ra
kiểu hình ở sinh vật, và allele còn lại được gọi là lặn, bởi đặc tính của nó bị lấn át và
không được biểu hiện ra. Một số allele không lấn át hẳn, thay vì thế có tính trội không
hoàn toàn tức thể hiện ra kiểu hình trung gian, hoặc đồng trội, tức cả hai allele đều được
biểu hiện cùng lúc.
Nhìn chung, khi một cặp cá thể sinh sản hữu tính, con cái của chúng sẽ thừa kế ngẫu
nhiên một allele từ bố và một allele từ mẹ. Những phát hiện về sự di truyền riêng rẽ và sự
- phân ly của các allele được phát biểu chung với tên gọi Quy luật thứ nhất của Mendel hay
"Quy luật phân ly".
Ký hiệu và biểu đồ
Một sơ đồ phả hệ giúp theo dõi được kiểu di truyền của một
tính trạng đã cho.
Các nhà di truyền học sử dụng các biểu đồ và biểu tượng để mô tả sự di truyền. Một gen
được biểu trưng bởi một (hay vài) ký tự — trong đó ký tự viết hoa tượng trưng cho allele
trội và ký tự viết thường tượng trưng cho allele lặn. Thông thường biểu tượng "+" được
sử dụng để biểu thị allele thường, không đột biến ở một gen.
Ở các thí nghiệm lai và thụ tinh (đặc biệt về các quy luật Mendel), bố mẹ được xem là thế
hệ "P", con cái của chúng được gọi là thế hệ "F1" ("first filial"). Khi các cá thể F1 giao
phối với nhau, con của F1 lại tiếp tục gọi là "F2". Một trong những biểu đồ thường được
sử dụng để dự đoán kết quả lai là bảng Punnett (do Reginald Punnett sáng tạo).
Khi nghiên cứu về các bệnh di truyền ở người, các nhà di truyền học thường dùng sơ đồ
phả hệ để diễn tả sự di truyền ở các tính trạng. Các sơ đồ này sẽ sắp xếp sự di truyền của
một tính trạng trên một cây phả hệ.
Tương tác của nhiều gen
- Chiều cao con người là một tính trạng di truyền phức hợp. Các dữ liệu của Francis Galton
từ 1889 cho thấy: sự liên hệ tất cả chiều cao của con cái là một hàm trung bình của chiều
cao cha mẹ. Trong khi mức biến đổi tương quan, còn lại trong chiều cao con cái biểu thị
rằng môi trường cũng là một nhân tố quan trọng ở tính trạng này.
Mỗi sinh vật có hàng ngàn gen và ở các sinh vật sinh sản hữu tính, sự phân ly các gen này
nhìn chung độc lập với nhau. Điều này có nghĩa là sự di truyền của một allele tính trạng
hạt đậu vàng hay xanh không có liên quan tới sự di truyền của cặp allele màu hoa trắng
hoặc tía. Hiện tượng này, được biết đến là Quy luật thứ hai của Mendel hay "Quy luật
phân ly độc lập", mang ý nghĩa: các allele của những gen khác nhau sẽ thay đổi ngẫu
nhiên khi phân ly từ bố mẹ và sẽ tạo ra thế hệ con với nhiều tổ hợp gen khác nhau. Dù
thế, một số gen lại không phân ly độc lập với nhau, biểu thị tính liên kết gen.
Thực tế, các gen khác nhau lại có thể tương tác với nhau theo một cách nào đấy và ảnh
hưởng lên một tính trạng chung. Một ví dụ là ở loài hoa Omphalodes verna, tồn tại một
gen với hai allele xác định tính trạng màu hoa: xanh lam hoặc đỏ tía. Một gen khác điều
khiển khả năng có màu của hoa: có màu hoặc không màu (màu trắng). Khi một cây có hai
allele hoa trắng, hoa của cây đấy luôn màu trắng - cho dù gen đầu tiên có allele hoa đỏ
hay xanh. Sự tương tác được gọi là tương tác át chế (epistasis), khi gen thứ hai át chế sự
biểu hiện của gen thứ nhất. Bên cạnh tương tác át chế còn có kiểu tương tác bổ trợ, nghĩa
là sự biểu hiện của hai hay nhiều allele ở các gen khác nhau sẽ tạo kiểu hình mới, khác
với kiểu hình riêng được biểu hiện khi có mặt các allele ở từng gen riêng lẻ[47].
- Có nhiều tính trạng không riêng rẽ (ví dụ hoa màu trắng/tía) mà thay vì thế lại biểu hiện
liên tục (ví dụ chiều cao và màu da). Các tính trạng phức hợp này được tạo bởi tác động
cộng gộp của nhiều gen Sự chi phối của các gen này là tương đương, có vai trò biến đổi
mức độ biểu hiện, bên cạnh điều kiện môi trường của sinh vật. Tỷ lệ mà các gen của sinh
vật đóng góp cho một tính trạng phức hợp được gọi là mức di truyền (heritability)]. Số đo
của mức di truyền chỉ là tương đối - khi môi trường càng dễ biến đổi sẽ càng tác động lớn
hơn lên toàn bộ mức thay đổi của tính trạng. Một ví dụ, chiều cao của con người là một
tính trạng phức hợp với mức di truyền là 89% tại Mỹ. Ở Nigeria, nơi người dân có điều
kiện dinh dưỡng và y tế hay thay đổi hơn, chiều cao của họ có mức di truyền chỉ là 62%.
Cơ sở phân tử của tính di truyền
ADN và nhiễm sắc thể
Cấu trúc phân tử của ADN. Các bazơ ở hai chuỗi ghép cặp
với nhau qua liên kết hiđrô.
Cơ sở phân tử của gen là axít deoxyribonucleic (ADN hay DNA). ADN được cấu thành
từ một chuỗi các nucleotide; có bốn loại nucleotide là: adenine (A), cytosine (C), guanine
(G) và thymine (T). Thông tin di truyền tồn tại dưới dạng trình tự sắp xếp các nucleotide,
và gen tồn tại như một đoạn liên tục trên chuỗi ADN. Virus là ngoại lệ duy nhất của quy
luật này - có những virus sử dụng phân tử ARN đơn giản thay thế cho ADN làm vật liệu
di truyền.
ADN bình thường là một phân tử chuỗi kép, cuộn với nhau tạo thành dạng xoắn kép. Mỗi
nucleotide ở ADN liên kết một cách chọn lọc với nucleotide ở chuỗi đối diện: A liên kết
- với T, G liên kết với C. Nguyên tắc liên kết này gọi là nguyên tắc bổ sung. Theo cách
này, dù có dạng chuỗi kép, nhưng mỗi chuỗi đơn thực tế vẫn chứa tất cả các thông tin cần
thiết, không cần đến chuỗi đối diện. Cấu trúc này của ADN chính là cơ sở vật lý của tính
di truyền: quá trình sao chép ADN nhân đôi thông tin di truyền bằng cách chia tách hai
chuỗi của ADN, sử dụng mỗi chuỗi như một khuôn để tổng hợp một chuỗi bổ sung mới.
Các gen được sắp xếp thẳng hàng dọc theo chuỗi dài ADN, được gọi là nhiễm sắc thể. Ở
vi khuẩn, mỗi tế bào có một nhiễm sắc thể đơn, vòng, trong khi các sinh vật nhân chuẩn
lại có bộ nhiều nhiễm sắc thể mạch thẳng. Chuỗi ADN của chúng thường vô cùng dài;
một ví dụ, nhiễm sắc thể lớn nhất của con người có độ dài khoảng 247 triệu cặp bazơ
(bp). Trong nhiễm sắc thể, ADN thường kết hợp với những protein cấu trúc, có vai trò tổ
chức, kết chặt và điều khiển thu nhận ADN, tạo thành loại vật chất gọi là chromatin (chất
di truyền). Ở sinh vật nhân chuẩn, chromatin thường cấu tạo từ các nucleosome (thể
nhân), bao gồm những đơn vị ADN nhất định quấn quanh một lõi gồm các protein histon.
Tập hợp toàn bộ vật chất di truyền của một sinh vật (bao gồm các chuỗi ADN phức hợp
của tất cả nhiễm sắc thể) gọi chung là bộ gen (genome).
Biểu đồ năm 1882 của Walther Flemming về sự phân chia tế
bào nhân chuẩn. Các nhiễm sắc thể được nhân đôi, co xoắn và tổ chức lại. Sau đó, khi tế
bào phân chia, các nhiễm sắc thể tương đồng cũng phân cách vào các tế bào con.
Nếu các sinh vật đơn bội (mức bội thể bằng 1) chỉ có duy nhất một phiên bản cho mỗi
nhiễm sắc thể, thì đa phần động vật và nhiều thực vật là lưỡng bội (mức bội thể bằng 2),
- tức mỗi nhiễm sắc thể sẽ có một nhiễm sắc thể khác giống hệt nó (nhiễm sắc thể tương
đồng), và như thế sẽ có hai bản sao cho mỗi gen. Hai allele của một gen nằm trên những
locus giống nhau của nhiễm sắc tử chị em, mỗi allele được thừa hưởng từ bố hoặc từ mẹ.
Ngoại lệ xuất hiện ở các cặp nhiễm sắc thể giới tính, tức các nhiễm sắc thể chuyên biệt
mà nhiều động vật đã tiến hóa nên, giữ vai trò xác định giới tính của mỗi cá thể. Ở người
và những động vật có vú nói chung, nhiễm sắc thể Y có rất ít gen và khởi động sự phát
triển các đặc tính sinh dục đực, trong khi nhiễm sắc thể X lại tương tự các nhiễm sắc thể
khác, chứa nhiều gen không liên quan đến xác định giới tính. Những cá thể cái có hai
nhiễm sắc thể X tương đồng (XX), trong khi cá thể đực có một nhiễm sắc thể X và một
nhiễm sắc thể Y (XY) - sự khác biệt về số nhiễm sắc thể X dẫn tới những rối loạn di
truyền liên kết giới tính khác thường.
Sinh sản
Khi tế bào phân chia, toàn thể bộ gen đều được sao chép và mỗi tế bào con đều nhận
được một bản sao bộ gen của tế bào mẹ. Quá trình này gọi là nguyên phân, là dạng đơn
giản nhất của sinh sản và là cơ sở của sự sinh sản vô tính. Sinh sản vô tính có thể xuất
hiện ở cả các sinh vật đa bào, tạo ra thế hệ con thừa hưởng bộ gen từ chỉ duy nhất một cá
thể bố (mẹ). Thế hệ con mà nhìn chung giống hệt như bố mẹ được gọi là dòng vô tính
(clone).
Sinh vật nhân chuẩn thường sinh sản hữu tính để tạo ra con cái có vật liệu di truyền lấy từ
hai bộ gen khác nhau của cả hai cá thể bố mẹ. Quá trình sinh sản hữu tính luân phiên
nhau giữa hai dạng đơn bội (1n) và lưỡng bội (2n). Các tế bào đơn bội kết hợp vật chất di
truyền của chúng, tạo ra tế bào lưỡng bội với những nhiễm sắc thể ghép cặp. Các sinh vật
lưỡng bội tạo ra thể đơn bội bằng cách phân chia, tạo ra tế bào con thừa kế ngẫu nhiên
một nhiễm sắc thể trong mỗi cặp nhiễm sắc thể tương đồng. Đa phần động vật và nhiều
thực vật ở thể lưỡng bội trong hầu hết vòng đời, với thể đơn bội biến đổi thành các giao
tử đơn bào. Một quá trình chủ yếu trong sinh sản hữu tính là giảm phân, quá trình phân
bào chuyên biệt diễn ra ở tế bào sinh dục, trong đó bộ nhiễm sắc thể lưỡng bội được nhân
- đôi, trải qua hai lần phân bào để tạo nên các tế bào con đơn bội có số lượng nhiễm sắc thể
giảm đi một nửa so với tế bào mẹ ban đầu.
Dù không sử dụng cơ chế sinh sản hữu tính kiểu lưỡng bội/đơn bội như trên, vi khuẩn
vẫn có nhiều cách để thu nhận thông tin di truyền. Một số vi khuẩn có khả năng tiếp hợp,
chuyển một vòng nhỏ ADN tới một vi khuẩn khác. Vi khuẩn cũng có thể lấy những đoạn
ADN thô từ môi trường và kết hợp chúng vào trong bộ gen của vi khuẩn, hiện tượng này
được biết đến là sự biến nạp. Quá trình này có thể dẫn đến sự chuyển gen ngang, truyền
những đoạn thông tin di truyền giữa những sinh vật không có mối liên hệ với nhau.
Minh họa năm 1916 của Thomas Hunt Morgan về quá trình
trao đổi chéo kép giữa hai nhiễm sắc thể tương đồng.
Tái tổ hợp và liên kết gen
Trạng thái lưỡng bội tự nhiên của bộ nhiễm sắc thể cho phép gen nằm trên các nhiễm sắc
thể khác nhau phân ly độc lập với nhau trong quá trình sinh sản hữu tính, tái tổ hợp tạo tổ
hợp gen mới. Gen trên cùng một nhiễm sắc thể về lý thuyết không bao giờ tái tổ hợp, tuy
nhiên, thực tế vẫn diễn ra do xuất hiện quá trình trao đổi chéo nhiễm sắc thể. Khi trao đổi
chéo, hai nhiễm sắc thể trao đổi các đoạn ADN cho nhau, và đổi chỗ các allele giữa hai
nhiễm sắc thể. Trao đổi chéo thông thường diễn ra vào kỳ trước I (kỳ đầu của lần phân
chia đầu) của quá trình giảm phân.
- Xác suất trao đổi chéo giữa hai điểm đã cho trên nhiễm sắc thể có liên quan đến khoảng
cách giữa chúng. Ở một khoảng cách dài tùy ý, xác suất trao đổi chéo đủ cao để sự di
truyền các gen diễn ra tương đối riêng rẽ. Tuy nhiên, với các gen gần nhau hơn, xác suất
trao đổi chéo thấp chứng tỏ các gen có tính liên kết di truyền - allele của hai gen này có
khuynh hướng di truyền gắn liền với nhau. Các chỉ số về tính liên kết của chuỗi nhiều
gen có thể được kết hợp tạo nên một bản đồ liên kết, giúp xác định gần đúng vị trí sắp
xếp các gen trên nhiễm sắc thể
Biểu hiện gen
Mã di truyền
Mã di truyền: ADN, qua một trung gian ARN thông tin, mã
hóa cho protein với các bộ ba mã hóa.
Gen nhìn chung biểu hiện tác động của chúng thông qua việc tổng hợp protein, những
phân tử phức hợp đảm nhận hầu hết chức năng trong tế bào. Protein là một chuỗi các axít
amin; trình tự ADN của một gen, thông qua trung gian ARN thông tin (mARN), được sử
dụng để tạo nên trình tự phân tử protein riêng biệt. Quá trình này khởi đầu với việc tổng
hợp một phân tử mARN với trình tự tương ứng trình tự ADN của gen giai đoạn này gọi là
phiên mã.
Cấu trúc động của hemoglobin giúp thích ứng với khả năng vận
chuyển ôxy trong máu.
- Một axít amin thay đổi khiến cho hemoglobin gắn kết với nhau
tạo ra các sợi.
Phân tử mARN sau đó lại được sử dụng như một khuôn để tạo thành trình tự axít amin
tương ứng thông qua một quá trình gọi là dịch mã. Mỗi bộ ba nucleotide (codon) ở dãy
này tương ứng với một trong 20 loại axít amin có mặt trong protein - sự tương ứng này
gọi là mã di truyền. Dòng thông tin đi theo một hướng duy nhất: thông tin khi được
truyền từ chuỗi nucleotide tới chuỗi axít amin của protein, nó không bao giờ được truyền
ngược lại từ protein tới chuỗi ADN - hiện tượng này được Francis Crick gọi là "luận
thuyết trung tâm của sinh học phân tử".
Trình tự đặc hiệu của axít amin dẫn đến cấu trúc ba chiều độc nhất của protein, và điều
này lại liên quan đến chức năng của protein. Một số protein là những phân tử có cấu trúc
đơn giản, ví dụ như collagen tạo nên các sợi mô. Protein cũng có thể gắn kết với nhau và
với những phân tử đơn giản khác, nhiều khi hoạt động như những enzym xúc tác cho
phản ứng hóa học của các phân tử gắn kết với nó (các phản ứng không làm thay đổi cấu
trúc của bản thân protein). Cấu trúc của protein có tính động, ví dụ hemoglobin có thể
chuyển đổi thành các dạng khác biệt đôi chút mỗi khi protein này thu nhận, vận chuyển
và giải phóng oxy trong máu động vật có vú.
Chỉ một thay đổi nucleotide trong ADN cũng có thể gây biến đổi trình tự axít amin trong
protein. Bởi cấu trúc protein là kết quả của trình tự axít amin, nên những thay đổi trình tự
có thể làm thay đổi đột ngột các đặc tính của protein, do sự mất ổn định cấu trúc hay biến
- đổi bề mặt protein là nguyên nhân dẫn tới thay đổi về tính tương tác của nó với những
protein và phân tử khác. Một ví dụ, bệnh thiếu máu hồng cầu liềm là một bệnh di truyền
ở người, gây ra do khác biệt một bazơ trong vùng mã hóa phần β-globin của hemoglobin,
khiến một axít amin ở protein này cũng biến đổi theo và làm thay đổi đặc tính vật lý của
hemoglobin. Những hemoglobin này kết hợp với nhau, làm biến đổi hình dạng tế bào
hồng cầu; các tế bào hồng cầu hình liềm không còn di chuyển dễ dàng trong mạch máu,
chúng có xu hướng tắc nghẽn và thoái hóa, gây nên những vấn đề sức khỏe gắn liền với
bệnh này.
Một vài gen được phiên mã tạo ARN, nhưng ARN lại không tiếp tục dịch mã thành sản
phẩm protein - được gọi chung là ARN không mã hóa (non-coding RNA). Trong một số
trường hợp, ARN không mã hóa lại gập uốn hình thành những cấu trúc, tham gia các
chức năng then chốt của tế bào (ví dụ ARN ribosome và ARN vận chuyển). ARN cũng
có thể có tác động điều hòa thông qua tương tác lai với những phân tử ARN khác (ví dụ
microARN).
Kiểu gen, kiểu hình và môi trường
Một con mèo Xiêm mang đột biến mẫn cảm nhiệt độ về
tổng hợp sắc tố.
Dù các gen chứa đựng mọi thông tin một sinh vật cần để thực hiện chức năng, môi trường
vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc xác định kiểu hình sau cùng— tính lưỡng phân
trên được nói đến trong cụm từ "bản chất đối chọi môi trường" (nature vs. nurture). Kiểu
hình của các sinh vật phụ thuộc vào sự tương tác giữa kiểu gen và môi trường. Một ví dụ
cho kết luận này là trường hợp đột biến mẫn cảm với nhiệt độ. Thông thường, một axít
amin đơn lẻ thay đổi trong chuỗi protein không làm thay đổi hoạt động và tương tác của
- nó với các phân tử khác, tuy nhiên điều này lại làm mất ổn định cấu trúc. Trong môi
trường nhiệt độ cao, các phân tử chuyển động nhanh hơn và va chạm vào nhau, kết quả
protein không còn giữ được cấu trúc và mất đi chức năng. Ở môi trường nhiệt độ thấp,
cấu trúc protein lại ổn định và thực hiện chức năng bình thường. Loại đột biến này có thể
quan sát thấy ở màu lông những con mèo Xiêm, khi một đột biến xảy ra ở enzym phụ
trách sản xuất sắc tố, khiến enzym mất ổn định và mất chức năng ở nhiệt độ cao. Protein
này sẽ duy trì chức năng ở những vùng da lạnh hơn - như chân, tai, đuôi và mặt - làm cho
giống mèo này vẫn có phần lông màu đen ở những vùng nói trên.
Một ví dụ khác là ảnh hưởng sâu sắc của môi trường lên bệnh di truyền phenylketon niệu
ở người. Đột biến tạo nên chứng bệnh này, phá hoại khả năng phân giải axít amin
phenylalanine, tích tụ các chất trung gian gây độc, tiếp đó gây nên những tác động rất xấu
lên thần kinh. Nếu một người bị mắc đột biến phenylketon niệu đi theo một chế độ ăn
uống nghiêm ngặt tránh xa loại axít amin này, anh ta vẫn duy trì được tình trạng bình
thường và khỏe mạnh.
Điều hòa gen
Nhân tố phiên mã gắn kết với ADN, ảnh hưởng lên sự phiên mã
của các gen đã liên kết.
Bộ gen của một sinh vật bao gồm hàng nghìn gen, nhưng không phải bất cứ gen nào cũng
cần được hoạt động tại mọi thời điểm. Một gen chỉ có thể được biểu hiện khi nó được
phiên mã thành mARN (và dịch mã thành protein); thực tế tồn tại nhiều cách thức trong
tế bào để điều khiển sự biểu hiện của gen, đảm bảo cho protein nào được sản xuất chỉ khi
tế bào cần. Các nhân tố phiên mã là những protein điều hòa được gắn vào điểm khởi đầu
của gen, có vai trò hoạt hóa hay ức chế sự phiên mã của gen đó. Ví dụ, trong bộ gen của
- vi khuẩn E. coli có một dãy nhiều gen cần thiết cho việc tổng hợp axít amin tryptophan.
Tuy nhiên, khi tryptophan đã sẵn có trong tế bào, những gen tổng hợp trytophan sẽ không
được duy trì hoạt động. Sự có mặt của trytophan trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động của
những gen này - những phân tử trytophan liên kết với chất ức chế trytophan (trp
repressor - một nhân tố phiên mã), thay đổi cấu trúc của phân tử này giúp nó gắn được
vào gen. Trytophan repressor ngăn chặn quá trình phiên mã và sự biểu hiện của các gen
tổng hợp trytophan, do đó tạo nên sự điều hòa liên hệ ngược âm tính của quá trình tổng
hợp loại axít amin này.
Những khác biệt trong biểu hiện gen đặc biệt rõ ràng ở các sinh vật đa bào, khi các tế bào
cùng có chung bộ gen nhưng lại có cấu trúc và hoạt động rất khác nhau, dựa trên sự biểu
hiện của các tập hợp gen khác nhau. Tất cả tế bào trong một cơ thể đa bào đều có nguồn
gốc từ một tế bào duy nhất, được biệt hóa thành các dạng tế bào khác nhau khi phản ứng
lại các tín hiệu ngoại và gian bào, và dần dần kiến lập các phương thức biểu hiện gen
khác nhau để thực hiện các hoạt động khác nhau. Bởi không có một gen riêng lẻ nào chịu
trách nhiệm cho sự phát triển các cấu trúc bên trong sinh vật đa bào, nên những phương
thức biển hiện trên đều phát sinh từ những tương tác phức tạp giữa nhiều tế bào.
Ở sinh vật nhân chuẩn, tồn tại những đặc tính cấu trúc của chromatin có ảnh hưởng đến
sự phiên mã của gen, thường ở dạng thường biến (modification) trên ADN hay chromatin
mà vẫn được di truyền ổn định sang các tế bào con. Những đặc tính này được gọi là
"ngoại di truyền" (epigenetic) bởi chúng xuất hiện ở ngoài phạm vi trình tự ADN và vẫn
được duy trì từ tế bào này sang thế hệ kế tiếp. Bởi có những đặc tính ngoại di truyền, các
dạng tế bào khác nhau sinh trưởng trong cùng một môi trường có thể giữ lại những đặc
điểm riêng biệt của chúng. Dù các đặc tính ngoại di truyền nhìn chung mang tính động
trong tiến trình phát triển và không được giữ lại ở thế hệ sau của thế hệ kế tiếp, nhưng
một số, như hiện tượng cận đột biến (paramutation), vẫn được di truyền qua nhiều thế hệ
và tồn tại như những ngoại lệ hiếm hoi nằm ngoài quy luật chung của ADN (được xem
như cơ sở căn bản của tính di truyền).
Biến đổi di truyền
- Đột biến
Sự lặp gen (lặp đoạn nhiễm sắc thể) cho phép đa dạng hóa bằng
cách cung cấp thêm nguyên liệu di truyền: một gen có thể đột biến và mất đi chức năng
ban đầu mà không làm tổn hại đến sinh vật.
Trong quá trình tự nhân đôi ADN, những sai sót đôi lúc diễn ra khi tổng hợp chuỗi thứ
hai. Những lỗi này, gọi là đột biến, có thể có tác động lên kiểu hình của cá thể, đặc biệt
nếu chúng xảy ra tại phần mã hóa protein của một gen. Tỷ lệ sai sót thường rất thấp - 1
lỗi trong 10-100 triệu bazơ - nhờ khả năng "đọc sửa" của ADN polymerase (Nếu không
được đọc sửa, tỷ lệ lỗi sẽ cao hơn hàng nghìn lần, bởi nhiều virus dựa vào ADN hay
ARN polymerase thiếu khả năng đọc sửa, làm tăng tỷ lệ đột biến lên cao). Quá trình làm
tăng tỷ lệ biến đổi ở ADN được gọi là "gây đột biến" (mutagenic): các hóa chất gây đột
biến đẩy mạnh làm tăng sai sót trong tái bản ADN, gây nhiễu loạn kết cấu của sự ghép
cặp bazơ; trong khi tia UV tạo ra đột biến bằng cách gây tổn hại cấu trúc ADN. Các tổn
thương về hóa học ở ADN cũng có thể diễn ra một cách tự nhiên, và tế bào sử dụng cơ
chế sửa chữa ADN để sửa lại các ghép đôi không cân xứng hay đứt gãy ở ADN - tuy
nhiên việc sửa chữa này thỉnh thoảng vẫn thất bại và không thể đưa ADN trở lại chuỗi
ban đầu.
Với những sinh vật sử dụng trao đổi chéo nhiễm sắc thể để trao đổi ADN và tái tổ hợp
gen, những sai sót khi bắt cặp thẳng hàng ở giảm phân cũng có thể tạo ra đột biến. Lỗi
trong trao đổi chéo đặc biệt xảy ra khi những phần giống nhau trên các nhiễm sắc thể
khiến chúng bắt cặp nhầm lẫn, làm một số vùng của bộ gen bị đột biến. Những lỗi này