Ngân hàng thương mại và nghiệp vụ
Tài liệu này giúp người đọc nhìn nhận những đóng góp cũng như những mặt còn yếu kém của hệ thống ngân hàng nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng tới nền kinh tế Việt Nam (VN), từ đó đưa ra những khuyến nghị và giải pháp nhằm đối mặt với những thách thức của quá trình hội nhập kinh tế thế gi... » Xem thêm
Tóm tắt nội dung tài liệu
- 0
- 1
Lời giới thiệu
Trong nền kinh tế hàng hoá, có nhiều doanh nghiệp, nhiều đơn vị tổ chức kinh tế hoạt
động kinh doanh trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau. Có ngành tạo ra sản phẩm
hàng hoá cho xã hội như nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, có ngành chỉ làm nhiệm
vụ lưu thông phân phối, lại có ngành chỉ làm nhiệm vụ lưu thông phân phối, lại có ngành
chỉ thuần tuý cung cấp dịch vụ (vận tải, bưu chính viễn thông). Ngân hàng (NH) là một
trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. NH bao gồm nhiều loại tuỳ
thuộc sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó
NH thương mại (NHTM) thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản,thị phần, số
lượng các NH. Hoạt động của NHTM trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng và dịch vụ NH và
được coi là một loại định chế tài chính đặc biệt của nền kinh tế thị trường. Người ta cho
rằng NHTM ra đời trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá phát triển tới một trình độ nhất
định, đồng thời qua quá trình tồn tại và phát triển hàng nhiều thế kỷ, hệ thống NHTM
ngày càng được hoàn thiện, NHTM trở thành một trong những định chế không thể thiếu
của nền kinh tế thị trường, hoạt động của NHTM đã và sẽ góp phần to lớn trong việc thúc
đẩy nền kinh tế phát triển. Vì vậy nghiên cứu họat động của NHTM và tác động của nó
tới tăng trưởng kinh tế giúp chúng ta có thể nhìn nhận những đóng góp cũng như những
mặt còn yếu kém của hệ thống NH nói chung và NHTM nói riêng tới nền kinh tế Việt
Nam (VN), từ đó đưa ra những khuyến nghị và giải pháp nhằm đối mặt với những thách
thức của quá trình hội nhập kinh tế thế giới hiện nay.
- 2
A. Tổng quan chung về NHTM
I. Định nghĩa:
Đầu tiên NHTM là một loại NH trung gian. Ở mỗi nước có một cách định nghĩa riêng
về NHTM. Ví dụ: Ở Mỹ: NHTM là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp các dịch vụ
tài chính và họat động trong ngành dịch vị tài chính. Ở Pháp: NHTM là những xí nghiệp
hay cơ sở nào thường xuyên nhận tiền của công chúng dưới hình thức kí thác hay hình
thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay
dịch vụ tài chính. Ở Ấn Độ: NHTM là cơ sở nhận các khoản kí thác để cho vay hay tài
trợ và đầu tư. Ở Thổ Nhĩ Kì: NHTM là hội trách nhiệm hữu hạn thiết lập nhằm mục đích
nhận tiền kí thác và thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, nghiệp vụ công hối phiếu, chiết
khấu hoặc các hình thức vay mượn khác.
Ở VN Pháp lệnh NH ngày 23-5-1990 của hội đồng Nhà nước VN xác định: NHTM là
tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ
khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp
vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Như vậy, NHTM là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, có những đặc thù riêng trong
hoạt động kinh tế - tài chính. NHTM có đặc điểm giống như các doanh nghiệp khác trong
nền kinh tế, cũng sử dụng các yếu tố sản xuất như lao động, tư liệu lao động, đối tượng
lao động (tiền vốn) làm yếu tố đầu vào, để sản xuất ra những yếu tố đầu ra dưới hình thức
dịch vụ tài chính mà khách hàng yêu cầu.
II. Vị trí, vai trò của NHTM trong hệ thống tài chính cũng như trong nền kinh tế
nói chung đặt trong bối cảnh toàn cầu hóa
1. Vai trò tập trung vốn của nền kinh tế
Nền kinh tế có những chủ thể có dư tiền, khoản tiền đó chưa được sử dụng một cách
triệt để và họ cũng muốn tiền này sinh lời cho mình từ đó nảy sinh nhu cầu cho vay vốn,
bên cạnh đó tồn tại những chủ thể cần vốn để thực hiện họat động kinh doanh. Nhưng
những chủ thể này không quen biết nhau và cũng có thể không tin tưởng nhau nên tiền
- 3
vẫn chưa được lưu thông. NHTM với vai trò trung gian của mình, nhận tiền từ người
muốn cho vay, trả lãi cho họ và đem số tiền ấy cho người muốn vay vay.
Thực hiện được điều này NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong
nền kinh tế; mặt khác với số vốn này NHTM sẽ đáp ứng được nhu cầu vốn của nền kinh
tế để sản xuất kinh doanh.
Vai trò trung gian này trở nên phong phú hơn với việc phát hành thêm cổ phiếu, trái
phiếu,… NHTM có thể làm trung gian giữa công ty và các nhà đầu tư; chuyển giao mệnh
lệnh trên thị trường chứng khoán; đảm nhận việc mua trái phiếu công ty.
2.Chức năng trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán:
NHTM làm trung gian thanh toán trên cơ sở những hoạt động đi vay để cho vay. Khi
làm trung gian thanh toán, NHTM mở tài khoản tiền gửi, nhận vốn tiền gửi vào tài khoản
và thanh toán theo yêu cầu khách hàng. Việc nhận tiền gửi và theo dõi các khoản chi trên
tài sản của khách hàng là tiền đề để NH thực hiện chức năng này. NH trích tiền từ tài
khoản tiền gửi của khách hàng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ và nhập vào tài
khoản tiền gửi, tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo yêu cầu khách hàng.
Chức năng thanh toán có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh tế:
+ Khi làm trung gian thanh toán, NH tạo ra những công cụ lưu thông và độc quyền
quản lý các công cụ đó (sec, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán..) như vậy mọi công việc
thanh toán của xã hội tập trung vào NH, nên việc thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ trở
nên thuận tiện, nhanh chóng an toàn và tiết kiệm chi phí, do đó góp phần tăng tốc độ lưu
thông hàng hoá, luân chuyển vốn và tái sản xuất xã hội.
+ Do thực hiện chức năng này, NH có điều kiện huy động tiền gửi cho khách hàng tới
mức tối đa, mở rộng cho vay và đầu tư, đẩy mạnh hoạt động của NH, đồng thời NH còn
góp phần giám sát kĩ luật hợp đồng kinh tế, tài chính và thanh toán theo đúng quy định
của pháp luật.
3. Chức năng tạo tiền:
Với chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán, NHTM có khả năng tạo
- 4
ra tiền gửi thanh toán. Thông qua chức năng làm trung gian tín dụng, NH sử dụng số tiền
vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay lại được khách hàng sử dụng để thanh
toán chuyển khoản cho khách hàng ở NH khác và chỉ thực hiện nghiệp vụ cho vay NH
mới bắt đầu tạo tiền. Vậy là từ một tài khoản tiền gửi ban đầu, thông qua cho vay bằng
chuyển khoản trong hệ thống NHTM, số tiền gửi đã tăng lên gấp bội so với lượng tiền
ban đầu.
Khối lượng tiền do NHTM tạo ra có ý nghĩa lớn, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển của quá trình sản xuất kinh doanh đáp ứng nhu cầu sử dụng tiền của xã hội.
B. Hoạt động của NHTM
I.Các loại hình NHTM ở VN:
1.Chia theo hình thức sở hữu và góp vốn:
- NHTM NN: là NHTM thuộc sở hữu của Nhà nước, được thành lập bởi 100% vốn
ngân sách nhà nước cấp
- NHTM CP: Là NHTM được thành lập dưới hình thức một công ty cổ phần , vốn của
nó được huy động thông qua phát hành các cổ phiếu
- NHTM liên doanh: Là NHTM được thành lập dưới hình thức góp vốn liên doanh
giữa các đối tác sở hữu khác nhau
- Chi nhánh NHTM nước ngoài là NHTM được thành lập theo pháp luật và thuộc sở
hữu của nước ngoài, được chính phủ VN cấp giấy phép hoạt động và tuân thủ theo pháp
luật của VN
- NHTM 100% vốn nước ngoài
2.Chia theo tính chất hoạt động:
-Hoạt động chuyên doanh và đa năng:
+NHTM chuyên doanh): chỉ tập trung cung cấp một số dịch vụ NH. VD: chỉ cho vay
đối với xây dựng cơ bản, hoặc đối với nông nghiệp…
+NHTM đa năng: là NH cung cấp mọi dịch vụ NH cho mọi đối tượng.. Đây là xu
hướng hoạt động chủ yếu hiện nay của các NHTM
- 5
-Hoạt động bán buôn và NH bán lẻ:
+ Hoạt động NH bán buôn: Cung cấp các dịch vụ cho các NH, các công ty tài chính,
cho Nhà nước, cho các doanh nghiệp lớn
+ Hoạt động NH bán lẻ: Cung cấp các dịch vụ trực tiếp cho các doanh nghiệp, hộ gia
đình, các cá nhân, với các khoản tín dụng nhỏ
Hệ thống NHTM tại VN hiện nay: 5 NHTM Nhà nước,(NH Ngoại thương chuyển
sang mô hình cổ phần), 1 NH chính sách xã hội, 6 NH liên doanh, 38 NHTMCP, 47 chi
nhánh NH nước ngoài.
II. Hoạt động kinh doanh của NHTM
1. Mục tiêu hoạt động: Các NHTM hoạt động đều nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi
nhuận, an toàn kinh doanh và không ngừng gia tăng doanh thu.
2. Đặc thù hoạt động nói chung:
* Vốn và tiền vừa là phương tiện, vừa là mục đích kinh doanh nhưng đồng thời cũng
là đối tựơng kinh doanh của NHTM.
* NHTM kinh doanh chủ yếu bằng vốn của người khác. Vốn tự có của NHTM chiếm
một tỷ lệ rất thấp.
* Hoạt động kinh doanh của NHTM có liên quan đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực hoạt
động và nhiều đối tượng khách hàng khác nhau.
* Hoạt động kinh doanh của NHTM là hoạt động chứa nhiều rủi ro, bởi lẽ nó tổng hợp
tất cả các rủi ro của khách hàng, đồng thời rủi ro trong hoạt động kinh doanh NH có thể
gây ảnh hưởng lớn cho nền kinh tế hơn bất kỳ rủi ro của loại hình doanh nghiệp nào vì
tính chất lây lan có thể làm rung chuyển toàn bộ hệ thống kinh tế
* Hoạt động kinh doanh của NHTM diễn tiến liên tục trong mỗi loại hình nghiệp vụ
và các sản phẩm của NHTM có mối liên hệ với nhau rất chặt chẽ.
* Cấu trúc tài chính của NHTM: Cấu trúc tài chính của NH phản ảnh cấu trúc tài sản,
cấu trúc nguồn vốn và cả mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn của NH.
3. Các hoạt động chính (nghiệp vụ) của NHTM:
- 6
3.1 Nghiệp vụ huy động vốn ( nghiệp vụ nợ)
Những khoản mục nguồn vốn do nghiệp vụ này tạo nên khi thể hiện trên bản tổng kết
của NHTM sẽ nằm bên tài sản nợ. Đây chính là nghiệp vụ khởi đầu cho sự hoạt động của
NH.
a. Vốn pháp định (vốn chủ sở hữu, vốn tự có):
Là số vốn đầu tư ban đầu khi thành lập NH và ghi trong điều lệ hoạt động.
Để bắt đầu hoạt động chủ NH phải có 1 lượng vốn nhất định, ít nhất phải bằng mức
vốn pháp định do NHTW công bố vào đầu mỗi năm tài chính. Nguồn vốn này là điểm
xuất phát để tổ chức hoạt động của NH, là yếu tố quan trọng bảo đảm các khoản nợ. Vốn
pháp định thành lập NHTM nhà nước là 3000 tỷ đồng, các loại hình NHTM khác là 1000
tỷ đồng, cho đến năm 2010 là 3000 tỷ đồng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành
loại vốn này rất đa dạng tuỳ thuộc vào loại hình sở hữu, năng lực tài chính của NH. Nếu
là NHTM thuộc sở hữu nhà nước thì nguồn vốn hình thành ban đầu là do Ngân sách nhà
nước cấp 100%, nếu là NHTM CP, các cổ đông đóng góp thông qua hình thức phát hành
và mua cổ phần và cổ phiếu. Nếu NH liên doanh thì vốn pháp định là vốn đóng góp cổ
phần của liên doanh.
Nguồn vốn này còn phụ thuộc vào quy mô và phạm vi hoạt động của NH. Vốn tự có
càng lớn, sức chịu đựng của NH càng lớn khi tình hình thị trường có biến động bất ngờ.
Tuy nhiên vốn điều lệ không phải càng lớn càng tốt vì nếu như vậy mức lợi nhuận chia
cho các cổ đông sẽ càng thấp.
Không được dùng vốn điều lệ để chia lợi tức, lập quỹ phúc lợi khen thưởng, mà chỉ
được dùng để mua sắm bất động sản, trang thiết bị, dự trữ, kí quỹ tại NHTW hoặc đầu tư
vào một thương vụ nào đó.
Trong quá trình hoạt động, NH gia tăng vốn của chủ theo nhiều phương thức như:
nguồn từ lợi nhuận, nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm…để
mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hay đáp ứng yêu cầu gia tăng
thêm vốn chủ của NH do NHTW yêu cầu.
- 7
b. Nghiệp vụ đi vay của NHTM
* Vay Ngân hàng nhà nước (NHNN,NHTW): đây là khoản vay cấp bách trong chi
trả của NHTM . Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái chiết khấu (tái cấp vốn) và
thế chấp có ứng trước có bảo đảm hoặc không bảo đảm. Các thương phiếu đã được các
NHTM chiết khấu hoặc tái chiết khấu trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền các NHTM
mang thương phiếu này đến tái chiết khấu tại NHNN. Nghiệp vụ vay làm cho thương
phiếu của NHTM giảm đi và dự trữ (tiền mặt hay tiền gửi tại NHNN) tăng lên. Rõ rang
tiền đã đi vào lưu thông bằng con đường các NHTM chuyển đổi hối phiếu và trái phiếu
lên NHTW và bị chiết khấu phần lãi phải trả cho khoản nợ vay. Trong trường hợp chưa
có thương phiếu, NHNN cho NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo mức tín dụng
nhất định. NHTW điều chỉnh lượng vay tiền của các NHTM thông qua điều chỉnh lãi suất
chiết khấu ( tùy vào chính sách nới lỏng cung ứng hoặc thắt chặt cung ứng tiền tệ)
* Vay các NHTM khác: hoặc dự trữ của NHTW: Các NHTM phải ký gửi các khỏan
tiền mặt nhất định tại kho của NHTW( khoản tiền không sinh lời, còn được gọi là dự trữ
bắt buộc). Khi NH (A) thiếu hụt dự trữ hoặc buộc phải đảm bảo khả năng thanh khoản
gấp thì nó sẽ vay của NH (B) thừa dự trữ. Khoản tiền này sẽ được chuyển từ phần dự trữ
thuộc sở hữu của NH (B) tại NHTW địa phương sang bên NH(A). Đây là nguồn cho vay
sinh lãi. Thông thường các khoản vay này là các khoản nợ ngắn, dưới 1 tuần.
Các NHTM còn có thể huy động vốn tiếp nhận- vốn mà NHTM nhận ủy thác từ các tổ
chức trong hoặc ngoài nước, từ Ngân sách nhà nước để cho vay trung, dài hạn thuộc kế
hoạch xây dựng cơ bản tập trung của Nhà nước.
* Vay trên thị trường tiền tệ: Giống như các doanh nghiệp khác, các NH cũng vay
mượn bằng cách phát hành các giấy nợ: kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu…trên thị trường
vốn.
Khả năng huy động vốn của hình thức này tùy thuộc vào: mức độ chấp nhận của thị
trường với nó như một phương tiện thanh toán trong lưu thông, sự khuyến khích hay
không của NHTW và hiệu quả của việc sử dụng vốn vay được.
- 8
* Vay từ công ty mẹ: thay vì phát hành trái phiếu hoặc giấy nợ thì các công ty mẹ của
NH sẽ thay thế làm việc đó dưới hình thức phát hành trái phiếu, cổ phiếu công ty. NH sẽ
không phải chịu rang buộc về dự trữ, lãi suất và thủ tục. Tức là ở đây, công ty mẹ vay của
thị trường rồi NH sẽ vay của công ty mẹ.
c. Nghiệp vụ ký thác:
Ký thác là tiền của NH nhận của khách hàng bất luận dù phải trả lãi hay không với
quyền sử dụng tiền đó cho họat động kinh doanh của mình và bổn phận làm nghĩa vụ
ngân quỹ cho người ký gửi , đặc biệt phải có trách nhiệm hoàn vốn theo quy định.
Hình thức ký thác sơ khai ban đầu là bảo quản tiền vàng.
Khách hàng ký thác tại NH vì 2 mục đích chính: để hưởng các lợi ích của các phương
tiện mà NH cung cấp cho họ và hưởng lãi suất.
Tiền gửi khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM, chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng nguồn tiền của NHTM. Để có thể gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh
tranh, và nguồn tiền gửi ngày càng có chất lượng cao, các NHTM đã đưa ra và thực hiện
nhiều hình thức huy động vốn khác nhau.
*Tiền gửi không kỳ hạn: Đây là khoản tiền doanh nghiệp hay cá nhân gửi vào NH để
NH thực hiện chức năng trung gian thanh toán, tức là người gửi có quyền rút ra bất cứ lúc
nào họ muốn. Nó tạo ra khả năng tiện lợi giúp cho khách hàng không phải thanh toán
bằng tiền mặt mà thay vào đó là thanh toán bằng séc. Lãi suất của khoản tiền này rất thấp
hoặc bằng không, thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ NH với mức
phí thấp. Các NH có thể kết hợp tài khoản tiền gửi từ nhân dân ( tài khỏan séc), hoặc tài
khoản tiền gửi từ thương nhân- tài khoản vãng lai (chi trội trên số dư có của tài khoản
tiền gửi thanh toán).
*Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội: Nhiều khoản thu bằng
tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác định.
Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền , NH đã đưa ra hình thức gửi tiền có kì
hạn. Người gửi tiền không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh
- 9
toán để áp dụng với tiền gửi loại này. Khi cần chi tiêu, người gửi phải đến NH để rút tiền
ra. Tiền gửi có kỳ hạn phụ thuộc vào lãi suất của NHTM, lãi suất các loại hình khác và
thu nhập của người dân. Tuy không thuận lợi bằng tiền gửi thanh toán nhưng tiền gửi có
kì hạn được hưởng lãi suất cao hơn tuỳ theo độ dài của kì hạn.
*Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm
thời nhàn rỗi. Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với NH họ đều có thể gửi tiết kiệm
nhằm thực hiện mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm. Nhằm thu hút
ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các NH đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói
quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động hay đưa ra các
hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh .
Ví dụ : NH có thể mở cho mỗi người tiết kiệm nhiều sổ tiết kiệm cho mỗi lần gửi, mỗi
kì hạn khác nhau. Sổ tiết kiệm này không dùng để thanh toán tiền hàng và dịch vụ được
nhưng có thể dùng để thế chấp vay vốn nếu NH chấp nhận.
* Tiền gửi của các NH khác:
Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, NHTM này có thể gửi
tiền tại NHTM khác.
3.2. Nghiệp vụ quản trị và sử dụng vốn:
a. Nghiệp vụ thanh khoản - vốn ngân quỹ
NHTM luôn dự trữ một phần tài sản dưới hình thức dự trữ gồm tiền mặt và số dư trên
tài khoản ở NHTƯ. Số tiền này được dự trữ với hai mục đích:
* Do pháp định: là số tiền nằm trong kho của NHTƯ dưới dang dự trữ của NHTM.
Các điều kiện chung về dự trữ pháp định được áp dụng cho tất cả các tổ chức nhận tiền
gửi và cho tất cả các tài khoản giao dịch. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ do NHTƯ quy định
nhằm nâng cao khả năng kiểm soát chính sách tiền tệ của nhà nước.
* Đáp ứng nhu cầu giao dịch: là phần dự trũ dôi thừa nhằm ứng phó với các yêu cầu
rút tiền của khách hàng. Mặc dù vậy,nhu cầu dự trữ tiền mặt của các NH thường khác
nhau, tuỳ thuộc vào tỷ lệ sử dụng tiền mặt và sự biến động trong nền kinh tế. Trong