Thận nhân tạo - Lọc máu
Khi sinh ra, mỗi người thường có hai trái thận. Tuy nhiên, theo thống kê, cứ 4.000 người thì một người tạo hóa chỉ trao cho một trái thận, và họ vẫn sống khỏe mạnh. Thận trái hay bị thiếu, nam giới một thận nhiều hơn nữ giới. » Xem thêm
Tóm tắt nội dung tài liệu
- Thận Nhân Tạo- Lọc Máu
Thận có hình dẹp của một hạt đậu, chiều dài khoảng 10cm, bề ngang khoảng 5cm và dày
khoảng 2,5 cm.
Khi sinh ra, mỗi người thường có hai trái thận. Tuy nhiên, theo thống kê, cứ 4000 người
thì một người tạo hóa chỉ trao cho một trái thận, và họ vẫn sống khỏe mạnh. Thận trái hay bị
thiếu, nam giới một thận nhiều hơn nữ giới. Một số rất ít người khác có tới ba trái thận mà
không gặp khó khăn gì.
Thận nằm ở hai bên cột sống, dựa vào các bắp thịt lưng ở phần trên của bụng và được
che trở ở phía trên bằng hoành cách mô và xung quanh bằng các xương sườn. Thận được neo
vào thành bụng để khỏi di động. Ðôi khi, dây neo lỏng lẻo, thận lắc lư vô hại trong bụng.
Mỗi thận được bọc trong một bao xơ và gồm có một lớp vỏ bên ngoài và phần tủy ở bên
trong. Thành phần hoạt động chính yếu của thận là cả triệu những đơn-vị-thận (nephron) ở
trong vỏ và tủy thận. Ðây là một hệ thống những ống lọc tuy nhỏ li ti nhưng có khả năng gạn
lọc rất tinh vi, công hiệu mà chỉ tạo hóa mới tạo ra được.
Dưới con mắt thường, đơn-vị-thận nom giống như những hạt cát. Khi nhìn qua kính hiển
vi, chúng có hình dáng của những con sâu, đầu to với nhiều ống vòng soắn suýt lấy nhau (cuộn
tiểu cầu-glomerulus) và một thân đuôi dài, rỗng ruột. Cuộn tiểu cầu là nơi lọc sơ bộ các chất
thải trong máu vào các tiểu quản (tubule) của thận. Mỗi ngày, cả một tấn máu được hai trái
thận liên tục thanh lọc. Khả năng này nhiều gấp đôi nhu cầu của cơ thể. Vì thế, khi một trái
thận bị suy thì trái thận khỏe mạnh còn lại có đủ sức làm việc nhiều hơn để giúp cơ thể hoạt
động bình thường.
Nhiệm vụ của thận
- Với cả triệu những đơn vị thận để thanh lọc máu, thận có những nhiệm vụ quan trọng
như sau:
a-Thải ra khỏi cơ thể những phần tử cặn bã của sự chuyển hóa thực phẩm, những chất
độc hại, muối khoáng dư thừa…Nếu không được loại ra ngoài, các chất này sẽ gây ra nhiều
bệnh tật cho nhiều cơ quan, bộ phận con người, đôi khi đưa tới tử vong.
Ure là chất thải chính của sự tiêu hóa chất đạm và được sản xuất ở gan, chuyển sang
máu rồi được thận bài tiết ra ngoài cơ thể. Số lượng trung bình của ure trong máu là từ 8-
25mg/100cc. Trên mức độ này là có hại cho cơ thể, một tình trạng mà khoa học gia Hy lạp khi
xưa gọi là “Nước tiểu máu”(uremia).
b-Duy trì mức độ nước trong cơ thể cố định dù là nước luôn luôn ra, vào cơ thể theo
nhịp điệu khác nhau, lúc nhiều lúc ít. Nếu nhiệm vụ này bị rối loạn, nước sẽ được giữ lại, đưa
tới phù nước dưới bàn chân, hoặc ứ nước trên vùng bụng.
Mỗi ngày có khoảng từ 160 tới 180 lít nước chạy qua thận nhưng chỉ có từ 1- 1.5 lít
được thải ra ngoài (nước tiểu). Khoảng 98% nước được thận tái hấp thụ, đưa trở lại máu.
c-Giữ lại các huyết bào và các chất dinh dưỡng trong huyết tương như acid amine, chất
đạm, glucose, khoáng chất..
d-Ðiều hòa sự cân bằng giữa acid và kiềm trong các dung dịch cơ thể. Chất acid đến từ
thực phẩm, kiềm từ các loại thuốc như thuốc chống acid bao tử….
e-Duy trì sự cân bằng của các khoáng chất như potassium, sodium… Nếu chỉ hơi cao là
potassium đã đủ làm cho tim ngưng đập
f-Sản xuất các chất kích thích tủy tạo hồng huyết cầu, như chất erythropoietin
g-Giữ huyết áp bình thường. Rất nhiều trường hợp cao huyết áp là hậu quả của thận suy.
- Nguyên nhân thận suy
Thận suy khi khả năng lọc máu của tiều cầu thận bị rối loạn hoặc ngưng hoạt động. Suy
thận có thể là cấp tính hoặc mãn tính.
Suy cấp tính xẩy ra rất nhanh vì huyết áp đột nhiên xuống rất thấp sau khi cơ thể bị chấn
thương trầm trọng hoặc do biến chứng của phẫu thuật, trong trường hợp nhiễm khuẩn hoặc
trong các bệnh nặng.. Ðây là một tình trạng rất nghiêm trọng cần được điều trị liên tục tại bệnh
viện. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, thận có thể phục hồi được khả năng vài tuần hoặc vài
tháng, sau cơn hiểm nghèo.
Trong suy thận kinh niên, khả năng lọc máu của thận giảm từ từ và thường là do hậu quả
cùa một số bệnh như viêm thận tiểu cầu, tiểu đường, cao huyết áp, đa nang thận… Khi khả
năng lọc của thận chỉ còn từ 5 tới 10% thì thận đi vào giai đoạn cuối và cần thận nhân tạo hoặc
thay ghép thận.
Sau đây là một số nguyên nhân có thể đưa tới suy thận:
a.Nguyên nhân ở phía trên thận như sự giảm khối lượng nước ngoài tế bào trong các trường
hợp phỏng nặng, đi tiểu nhiều, xuất huyết, trướng bụng nước, giảm dung lượng máu vì bệnh
tim hoặc do nhiễm độc máu, suy chức năng gan, tác dụng hại của một số hóa chất, dược
phẩm…
b.Từ trái thận trong các bệnh của bệnh thận, do nhiễm trùng thận, thương tích thận, do tác dụng
xấu của hóa chất dược phẩm lên thận, trong bệnh tiểu dường, cao huyết áp ..Sử dụng quá nhiều
và quá lâu các loại thuốc chống đau như aspirin, phenacetin…là một trong những nguyên nhân
thường thấy.
1. Các yếu tố tới từ phía dưới thận như sạn tiết niệu, tắc nghẽn ống dẫn tiểu, rối loạn các khả năng
của bàng quang, sưng nhiếp tuyến…Hậu quả của suy thận:
- a.Khi thận suy, chất thải ure, creatinine sẽ tràn ngập máu, mất cân bằng giữa nước và các chất
điện phân, kali lên cao, calci giảm, chất đạm thất thoát…Ure là sản phẩm phân hủy chính trong
sự chuyển hóa của chất đạm và được thận lọc bài tiết ra ngoài.Tích tụ ure trong máu khi bị suy
thận sẽ đưa tới buồn nôn, ngủ lịm, suy nhược cơ thể …và có thể tử vong nếu không được điều
trị
b-Thiếu hồng cầu: Thận tiết ra hormon erythropoietin để kích thích tủy sản xuất hồng huyết
cầu. Khi thận suy, hormon nay giảm và đưa tới thiếu hồng cầu. Hồng cầu chở oxy tới các tế
bào. Thiếu oxy, tế bào không sử dụng được năng lượng từ thực phẩm, do đó người bệnh dễ bị
mệt mỏi, da xanh nhợt.Thận nhân tạo không phục hồi được khả năng sản xuất kích thích tố này
của thận.
c-Loạn dưỡng xương thường thấy ỏ 90% bệnh nhân suy thận đặc biệt là người cao tuổi và phụ
nữ trong thời kỳ mãn kinh. Nguyên do đưa tới rối loạn là thận không duy trì được mức độ bình
thường của calcium và phosphore trong máu. Xương trở nên mỏng, yếu, thay đổi hình dạng và
dễ gẫy.
d-Rối loạn giấc ngủ. Rối loạn này rất thường thấy ở người suy thận, lọc máu. Bệnh nhân luôn
luôn ở trong tình trạng mệt mỏi, nhức đầu, ngây ngất, buồn rầu, rối loạn giờ giấc ngủ, đau nhức
cơ thể, bồn chồn…
đ-Ngứa ngoài da trong khi hoặc sau khi lọc máu, vì ure huyết quá cao
e-Ðau nhức xương khớp vì chứng thoái hóa dạng tinh bột amyloidosis: chất đạm trong máu lên
cao, đóng vào khớp xương và gân gây đau nhức, cứng khớp..
Lọc máu
Phương pháp lọc máu với thận nhân tạo được áp dụng .khi khả năng loại bỏ chất phế thải và
nước dư trong máu của thận chỉ còn khoảng từ 5 tới 10% so với mức độ bình thường.
- Suy thận cấp tính không đáp ứng với điều trị thì lọc máu có thể được áp dụng trong một thời
gian ngắn cho tới khi thận hoạt động trở lại. Suy thận kinh niên thì phải lọc máu suốt đời, nếu
không được thay ghép thận.
Mục đích của thận nhân tạo là để mang lại sức khỏe cho cơ thể, bằng cách:
-Loại bỏ chất thải, muối khoáng và nước dư trong máu, tránh ứ đọng trong cơ thể
-Duy trì huyết áp ở mức bình thường
-Giữ thăng bằng một số hóa chất trong máu..
Hệ thống lọc máu thận nhân tạo đầu tiên được thành hình trong thế chiến thứ II. Máu được dẫn
qua một ống làm bằng màng bán thấm, nhúng trong dung dịch nước rửa máu. Màng bán thấm
để các phân tử nhỏ như chất thải ure chạy qua và máu sạch được truyền trở lại cơ thể.
Trong những thập niên vừa qua, thận nhân tạo đã được cải tiến với nhiều hiệu năng và dễ dàng
sử dụng hơn.
Nguyên tắc của sự lọc máu thực ra rất giản dị:
Máu từ cơ thể được dẫn vào một hệ thống lọc đặc biệt gọi là dialyser hoặc “thận nhân
tạo”. Dung dịch rửa máu (dialysate) được cho lưu hành xung quanh thận nhân tạo để lấy ra các
chất phế thải ure, creatinine … Máu sạch chứa tế bào máu, chất dinh dưỡng được đưa trở lại cơ
thể.
Việc đưa máu ra vào cơ thể hơi phức tạp hơn.
Thường thường là có hai kim: một để lấy máu ra khỏi cơ thể và một kim dẫn máu trở lại cơ thể.
Có ba cách để tạo ra nơi cắm kim cho việc lọc máu:
-Tạo ra một lỗ rò vĩnh viễn (fistula) giữa môt động mạch và một tĩnh mạch, máu sẽ vào tĩnh
mạch nhiều hơn, trở nên mạnh hơn và lớn hơn và chịu đựng được sự cắm kim chích thường
xuyên trong việc lọc máu. Hai kim được cắm vào lỗ rò: một để hút máu từ cơ thể đưa tới máy
lọc, một để đưa máu sạch trở lại cơ thể.
- Việc thực hiện lỗ rò này phải được dự trù trước và đôi khi phải cần thời gian là cả năm vết nối
mới lành và mới sử dụng được lỗ rò..Thường thường lỗ rò được làm ở cẳng tay, đôi khi ở cánh
tay, phía tay ít dùng trong công việc hằng ngày. Cách này được phổ biến vì ít gây khó khăn lại
dùng được lâu hơn
-Tạo ra một cầu nối giữa tĩnh mạch và động mạch bằng một ống nhựa tổng hợp, có nhiệm vụ
như một tĩnh mạch, máu ra vô qua cầu nối này.
-Trường hợp cấp bách, dùng một ống nhựa cắm vào tĩnh mạch ở cổ, ngực hoặc dưới bẹn để
máu ra vô…
Mỗi lần lọc máu, kim có thể được cắm vào cùng chỗ với lần trước hoặc theo kiểu nấc thang từ
dưới lên tên rồi ngược lại.
Trong cả ba phương thức vừa kể, một số rủi ro có thể xảy ra như nhiễm trùng, máu chẩy chậm
vì huyết cục ở chỗ cắm kim.
Bệnh nhân nên lưu ý chăm sóc nơi cắm kim:
– Bảo đảm là chuyên viên kiểm soát nơi cắm kim trước khi điều hành máy lọc.
– Giữ gìn nơi cắm kim luôn luôn sạch sẽ
– Chỉ sử dụng chỗ cắm kim cho việc lọc máu chứ không phải cho việc tiêm thuốc trị bệnh
khác.
– Khi đo huyết áp, đừng đặt bao lên trên chỗ cắm kim.
– Không mang nữ trang trên chỗ cắm kim.
– Ðừng nằm đè lên chỗ cắm kim
– Ðùng nâng mang vật nặng với cánh tay có chỗ cắm kim.
– Ðếm nhịp tim dập mỗi ngày tại mạch máu nơi cắm kim
Ðịa điểm để lọc máu
- Việc lọc máu có thể được thực hiện tại bệnh viện, trung tâm lọc máu hoặc ngay tại nhà riêng.
Nếu là tại nhà thương hoặc trung tâm thận nhân tạo thì lịch trình không thay đổi sẽ là ba lần
một tuần. Bệnh nhân có thể chọn những ngày thứ Hai, thứ Tư và thứ Sáu hoặc thứ Ba, thứ
Năm và thức Bẩy trong tuần, buổi sáng hoặc buổi chiều, nhưng nên nhớ là thời gian mỗi lần
lọc máu kéo dài từ 3 tới 5 giờ.
Các chuyên viên y tế có thể hướng dẫn cho bệnh nhân và thân nhân cách thực hiện lọc máu ở
nhà cũng như phương thức đối phó với khó khăn có thể xẩy ra. Thời gian cần để huấn luyện
là 4, 5 tuần lễ.
Ưu điểm việc lọc máu tại nhà là người bệnh không phải cách ngày đi tới trung tâm, thời gian
lọc ngắn hơn vì dung dịch lấy ra mỗi lần đều ít, do đó giảm thiểu được một vài khó chịu như
nhức đầu, buồn nôn, mệt mỏi..
Có nhiều phương thức lọc máu tại nhà:
a-Lọc máu theo quy ước thông thường, ba lần một tuần, mỗi lần lâu từ 3 tới 5 giờ.
b-Lọc máu với thời gian thu gọn. thực hiện với loại máy đặc biệt từ năm tới bẩy lần một tuần,
mỗi lần kéo dài khoảng 2 giờ.
c-Lọc máu ban đêm ở nhà. Thực hiện mỗi buổi tối hoặc cách tối, trong khi bệnh nhân ngủ, kéo
dài từ 6 đến 8 giờ.
Lọc máu qua Xoang phúc mạc
Phúc mạc là lớp màng thanh dịch lót xoang bụng, mặt ngoài áp vào vách bụng, mặt kia bao bọc
các cơ quan trong bụng. Xoang phúc mạc có một hệ thống huyết quản rộng lớn. Do đó, trong
cách lọc máu này, phúc mạc được sử dụng như một màng lọc và có công dụng như thận nhân
tạo.
- Một dung dịch gọi là chất thẩm tách gồm có nước, khoáng chất và đường dextrose được đưa
vào xoang phúc mạc bằng một cái ống nhỏ mềm. Ðường dextrose sẽ thu hút chất thải, hóa chất
và nước dư thừa trong máu vào dung dịch này. Sau vài giờ, dung dịch chứa chất thải được hút
ra ngoài, bỏ đi và một dung dịch thẩm tách mới lại được bơm vào xoang.
Phương thức được làm đi làm lại nhiều lần trong ngày để thanh lọc máu.
Cách lọc máu này ít tốn kém, bệnh nhân có thể tự thực hiện lúc nào cũng được. Tuy nhiên,
bệnh nhân cần được bác sĩ đặt cho một ống vĩnh viễn vào bụng để chuyền dịch thẩm tách và
phải giữ gìn ống sạch sẽ để tránh viêm xoang bụng.
Chế độ dinh dưỡng
Dù là lọc máu bằng thận nhân tạo hoặc qua xoang phúc mạc, người bệnh với suy thận đều cần
tuân theo một chế độ dinh dưỡng đúng đắn. Chế độ này sẽ giúp bệnh nhân duy trì một sức khỏe
tốt và giúp sự lọc máu được thành công hơn.
Mỗi bệnh nhân có một quy chế ăn uống riêng về các chất dinh dưỡng như nước, các muối
khoáng potassium, sodium, phosphore, chất đạm… Các chuyên viên dinh dưỡng có thể giúp
bệnh nhân lựa chọn một chế độ dinh dưỡng thích hợp với tình trạng sức khỏe và bệnh trạng của
mình.
– Bệnh nhân cần lưu ý tới lượng nước tiêu thụ hằng ngày. Với thận suy mà sử dụng quá nhiều
nước sẽ đưa tới ứ nước, tăng huyết áp, tim phải làm việc nhiều hơn.
– Khi bị suy thận, bệnh nhân thường được bác sĩ khuyên giới hạn tiêu thụ chất đạm, để giảm
thiếu chất thải ure. Khi lọc máu, bệnh nhân lại được khuyến khích nên sử dụng nhiều hơn các
loại chất đạm có phẩm chất tốt từ thịt, cá, gà vịt…vì các chất đạm này tạo ra ít ure hơn.. Lý do
là cơ thể cần nhiều chất đạm để tăng cường sức khỏe
– Muối ăn cần được hạn chế để tránh giữ nước trong cơ thể và để tránh tăng huyết áp.
– Potassium thường lên cao trong thời gian giữa hai lần lọc máu và gây ra rối loạn nhịp tim,
đôi khi đưa tới ngưng tim. Ðể giữ mức potassium bình thường trong máu, nên bớt ăn thực
phẩm có nhiều khoáng này như chuối, cam, trái cây khô…
- – Giới hạn thực phẩm có nhiều phosphore như sữa, pho mát, đậu khô.., vì khi dư thừa, khoáng
này sẽ lấy calcium từ xương, làm cho xương yếu, ròn, dễ gẫy.
-Lọc máu đôi khi cũng lấy đi một vài loại sinh tố, khoáng chất của cơ thể. Bác sĩ sẽ chỉ định
những chất nào mà người bệnh cần dùng thêm.
Người bệnh cũng cần sắp xếp lại nếp sống cho thoải mái, bớt căng thẳng tinh thần, giới hạn
các chất có thể gây hại cho thận, nói riêng, và toàn cơ thể nói chung…
Người bệnh có thề đi du lịch đó đây, vì các trung tâm lọc máu đều có sẵn khắp nơi. Ta chỉ cần
biết ở nơi nào, lấy hẹn trước để việc điều trị không bị gián đoạn.
Người bệnh cũng có thể tiếp tục công việc thường lệ, sau khi đã làm quen với sự lọc máu,
nhưng nên tránh các việc cần nhiều sức mạnh như nâng nhấc vật nặng, đào đất…
Kết luận
Thận nhân tạo là phương thức trị liệu rất hữu hiệu để mang lại sức khỏe cho người bị suy
nhược hai trái thận.
Tuy nhiên, phương thức điều trị hoàn hảo hơn vẫn là nếu người bệnh nhận được một trái thận
lành mạnh của người khác. Trái thận này có thể đến từ một người nào đó vừa mới mãn phần
hoặc qua một thương lượng mua bán.
Ðẹp hơn cả là được trái thận của một người trong gia đình, anh chị em, trao tặng. Vừa thân tình
vừa giảm thiểu rủi ro chối bỏ mô bào.
Các lựa chọn điều trị
Khi bị suy thận mãn, có ba phương pháp điều trị cơ bản:
Ghép thận
Chạy thận nhân tạo
Lọc màng bụng
- Cả ba phương pháp này đã và đang được áp dụng thành công trên toàn thế giới.
Ghép thận
Ghép thận là quá trình cấy ghép một quả thận khỏe mạnh từ người hiến thận còn sống hoặc đã
chết cho người mắc bệnh thận mạn tính. Tiếp nhận quả thận mới không phải là cách chữa trị
dứt điểm bệnh thận mà là một phương pháp điều trị. Nhiều bệnh nhân thận mạn tính là đối
tượng phù hợp để ghép thận, tuy nhiên không phải ai cũng phù hợp.
Nếu muốn tìm hiểu về phương pháp ghép thận, trước tiên người bệnh cần thảo luận về tình
trạng bản thân với bác sĩ chuyên khoa thận. Bác sĩ chuyên khoa thận sẽ đánh giá tình trạng sức
khỏe và thận của bệnh nhân trước khi đưa ra tư vấn. Nếu bác sĩ chuyên khoa thận kết luận đủ
điều kiện tiến hành ghép thận, bệnh nhân sẽ cần thường xuyên hoàn tất các kiểm tra và xét
nghiệm. Sau đó, bác sĩ có thể xếp họ vào danh sách chờ ghép quốc gia để nhận được thận từ
một người đã tử vong hoặc tìm được người hiến thận sống thích hợp.
Đưa ra lựa chọn chính xác
Ghép thận là một chủ đề rất cá nhân - vì vậy người bệnh cần dành nhiều thời gian cân nhắc và
suy nghĩ kỹ lưỡng. Có thể bắt đầu bằng cách thảo luận với bác sĩ chuyên khoa thận về tình
trạng bản thân. Nếu bác sĩ và bệnh nhân đều đồng ý lựa chọn phương pháp ghép thận, bệnh
nhân có thể đăng ký vào danh sách chờ nếu không có người hiến thận ngay, trong thời gian chờ
đợi vẫn có thể suy nghĩ cân nhắc kỹ hơn về quyết định này. Trao đổi với những người khác về
các ưu nhược điểm của việc ghép thận có thể giúp bệnh nhân đưa ra quyết định dựa trên những
gì tốt nhất.
- Chạy thận nhân tạo Điều trị chạy thận nhân tạo
Chạy thận nhân tạo là phương pháp điều trị trong đó máu được lọc bên ngoài cơ thể bệnh nhân
bằng máy chạy thận. Trong quá trình chạy thận nhân tạo, máu được rút ra từ mạch máu và đi
qua một quả lọc tổng hợp, được gọi là quả lọc máu. Trong quả lọc, máu được làm sạch trước
khi đưa trở lại cơ thể bệnh nhân. Vì lý do đó quả lọc máu còn được gọi là "thận nhân tạo".
Chạy thận nhân tạo thường được thực hiện ba lần mỗi tuần, tối thiểu bốn giờ mỗi lần, thường
tại một trung tâm lọc máu.
Một phương pháp thay thế cho điều trị chạy thận nhân tạo tại các trung tâm là điều trị trong
môi trường thân thuộc tại nhà. Các loại hình chạy thận nhân tạo tại nhà khác nhau cho phép
bệnh nhân điều chỉnh lịch điều trị phù hợp với sinh hoạt hàng ngày của mình. Tuy nhiên, mỗi
loại hình điều trị đều có những thách thức riêng.
Thời gian chạy thận nhân tạo tốt nhất
Với máy lọc máu hiện đại, người bệnh cần thực hiện ba ca chạy thận một tuần, mỗi lần tối
thiểu bốn giờ. Trong ca điều trị, người bệnh được kết nối với máy lọc máu. Con số này thật sự
đáng chú ý khi thử làm phép so sánh giữa việc máy lọc máu thực hiện mười hai giờ điều trị
- mỗi tuần, trong khi thận khỏe mạnh phải hoạt động liên tục không ngừng nghỉ. Bằng những
bước thực hiện đúng đắn, chúng tôi có thể giúp đỡ người bệnh có một cuộc sống khỏe mạnh
nhất có thể.
Lọc màng bụng
Phương thức điều trị này được gọi là lọc màng bụng (PD) do quá trình lọc máu được thực hiện
trong màng bụng - lớp màng lót trong ổ bụng.
Ổ bụng đóng vai trò chứa dịch lọc và quá trình lọc được thực hiện qua màng bụng. Độc tố và
dịch dư thừa đi qua màng bụng trong thời gian ngâm dịch chỉ định.
Một ống cố định hoặc catheter được đặt vào ổ bụng để đưa dịch lọc vào. Tại đây dịch lọc hấp
thụ các chất độc trong máu. Sau một thời gian, dịch này được xả vào một túi thải và được thay
thế dịch lọc mới. Quy trình đưa dịch vào và xả dịch ra này có thể được thực hiện bằng tay
trong ngày (Lọc màng bụng liên tục ngoại trú, CAPD) hoặc được thực hiện tự động ban đêm
bằng máy chạy thận theo chu kỳ (Lọc màng bụng chu kỳ tự động, APD). Dù bằng cách nào,
bạn đều cần có đủ khả năng và tự tin để thực hiện quy trình.
Lọc màng bụng
- Dù phương pháp điều trị do bạn chọn hay do bác sỹ khuyến cáo là gì, Fresenius Medical Care
sẽ luôn giúp đỡ và hỗ trợ bạn. Là Công ty hàng đầu thế giới trong lĩnh vực lọc máu, chúng tôi
cung cấp đầy đủ dịch vụ và sản phẩm – từ việc cung cấp điều kiện tối ưu cho ghép thận, hỗ trợ
lọc màng bụng cho đến các tiêu chuẩn cao nhất trong lĩnh vực chạy thận nhân tạo hiện nay.
Thận của tôi có được chữa khỏi không?
Lọc máu là một quá trình thay thế 2 chức năng quan trọng nhất của thận: loại bỏ lượng nước
dư thừa của cơ thể và loại bỏ các chất thải tích tụ trong máu. Lọc máu không thể làm hồi phục
hoàn toàn chức năng của thận ban đầu.
Tôi có phải nghỉ việc không?
Bạn có thể quay trở lại làm việc hoặc học tập khi điều trị thẩm tách máu. Nếu điều trị tại một
trung tâm lọc máu, bạn sẽ được cung cấp một kế hoạch điều trị phù hợp với lịch trình công
việc hay học tập của mình. Một lựa chọn điều trị khác là lọc máu tại nhà hoặc lọc màng bụng,
các lựa chọn này cho thời gian biểu linh hoạt hơn.
Chạy thận nhân tạo có đau không?
Trong quá trình chạy thận nhân tạo, bạn cảm thấy nhói mỗi khi cắm kim. Thuốc gây tê sẽ giúp
giảm đau. Ngoài ra, thời gian điều trị chạy thận nhân tạo bạn không bị đau đớn. Nếu thấy đau,
hãy báo cho nhân viên y tế để họ xử lý kịp thời.
Là 1 bệnh nhân lọc máu, tôi có thể ăn uống gì?
Bệnh nhân cần tuân thủ chế độ ăn uống đặc biệt. Chế độ ăn của bệnh nhân lọc màng bụng (PD)
và chạy thận nhân tạo (HD) khác nhau. Bạn nên nhận tư vấn từ bác sĩ chuyên khoa thận.
Tôi có thể chơi thể thao không?
Bệnh nhân nên tích cực tham gia các môn thể thao và trò chơi vận động, do thể thao có thể
- giúp duy trì sức khỏe và tinh thần lạc quan. Trong mọi trường hợp, bạn cần tham khảo ý kiến
của bác sĩ trước khi bắt đầu hoạt động thể thao.
Lọc máu và thận nhân tạo (Dialysis and „artificial kidney‟)
Xin nói trước là tôi không thể có ý kiến về một trường hợp cá biệt. Những nhận xét sau đây chỉ
có tính cách tổng quát cho chúng ta cùng học hỏi theo như ý muốn của người viết thư hỏi, căn
cứ trên một số nguồn tin tức y khoa được chấp nhận rộng rãi.
Cơ thể học:
Mỗi người có hai trái thận (kidneys), to chừng bằng nắm tay (11-14 cm x 6 cm x 4cm) nằm
phía sau của xoang bụng, hình hạt đậu (bean-shaped), lõm vào ở phía trong, đối diện với nhau,
thận bên phải thấp hơn bên trái vì phải nhường chỗ cho lá gan nằm trên. Thận có nhiều cơ năng
khác nhau:
1) Bài tiết nước và các chất hoà tan trong nước như creatinine, urea, những chất đem từ ngoài
cơ thể, nay cần được phế thải, ví dụ một số thuốc.
2) Giữ quân bình các lượng nước trong cơ thể, các chất điện giải (electrolytes, vd Na+, K+,
Ca++, bicarbonate HCO3- ) chứa trong đó, và giữ quân bình pH (không acid quá mà cũng
không kiềm quá)
3) Vai trò nội tiết (tiết hormone vào máu, endocrine function): điều hoà lượng vitamin D trong
cơ thể, lượng hồng cầu được sản xuất trong tuỷ xương (qua erythropoietin), áp huyết, lượng
muối natri trong cơ thể (renin>angiotensin>aldosterone axis)
Tiểu cầu (glomerulus) là gì?
- Chúng ta hãy nghĩ đến mỗi trái thận được kết tạo bởi nhiều đơn vị nhỏ li ti gọi là nephron (ống
sinh niệu). Mỗi thận có chừng 800,000-1,5 triệu nephron ,và lượng này giảm đi lúc chúng ta
già, mỗi nephron dài chừng 3-5 cm. Mỗi nephron hình dạng như một con rắn: đầu con rắn há
miệng ra hình như cái chén (nang Bowman, Bowman's capsule, glomerular capsule)). Trong
“miệng con rắn” ngậm một cái nút nhỏ gồm những mao mạch (capillaries) đem máu từ động
mạch thận (renal artery), nút này gọi là tiểu cầu thận (glomerulus). Nước và những chất tan
trong nước đi từ máu trong tiểu cầu, lọc qua nang Bowman, và chảy về phần tiểu cầu kế tiếp.
Các nephron này tạo cơ hội cho cơ thể thải ra những chất không cần thiết, cần phế thải trong
một lượng nước tiểu nhiều hay ít tuỳ theo cơ thể trong tình trạng thiếu nước (cần bảo vệ nước,
ít nước tiểu, chỉ đủ mang chất phế thải ra ngoài), hay dư nước (nước tiểu loãng hơn, cần đẩy
nước nhiều hơn ra khỏi cơ thể).
Cơ năng thận
Lúc nói tới cơ năng thận (kidney function, renal function), thường bác sĩ nói tới glomerular
filtration rate (GFR), tạm dịch “tỷ lệ lọc ở tiểu cầu” (“độ lọc cầu thận”).
Người ta dùng mức creatinine trong plasma để ước tính, gọi là estimated GFR (hay eGFR), với
những công thức khác nhau, trong đó các biến số được tính thêm vào như tuổi, giới tính, màu
da (da đen hay da trắng), lượng albumin trong plasma, lượng urea trong plasma). (bình thường
90-120 ml/mn, tính theo người trung bình, có diện tích cơ thể 1,73m2)
Tuỳ theo số eGFR, bịnh thận mạn tính (chronic renal disease) được xếp theo giai đoạn (stage):
Các giai đoạn bịnh thận mạn tính (Stages)
- I) trên 90 ml/mn: cơ năng thận (CNT, renal function) bình thường (nhưng CNT bình thường
không có nghĩa là thận không có bịnh). Bác sĩ quan sát bịnh nhân, kiểm soát áp huyết.
II) 60-89 ml/mn CNT giảm nhẹ. Bác sĩ quan sát bịnh nhân, kiểm soát áp huyết, các yếu tố cơ
nguy tim mạch khác.
III) 30-59 ml/mn CNT giảm vừa
IV) 15-29 ml/mn CNT giảm nặng (severely reduced). Bs chuẩn bị cho giai đoạn cuối (end
stage renal disease)
V) CNT giảm rất nặng (very severely reduced), giai đoạn cuối (end stage renal disease), cần
ghép thận (renal transplant), hay lọc máu (dialysis).
“Thận nhân tạo”
Bác sĩ người Hoà Lan Willem Kolff là người đầu tiên nghĩ đến dùng máy lọc máu, hồi đó gọi
là thận nhân tạo, cho bịnh nhân suy thận (renal failure) vào cuối thập niên 1930. Ông vừa điều
hành một bịnh viện, vừa dùng các lon nước ngọt, các ống dùng để làm xúc xích (sausage
casing), máy giặt để chế biến thận nhân tạo, vừa tham gia ngầm giúp đỡ quân kháng chiến Hoà
Lan chống Đức Quốc Xã. Ông thí nghiệm trên mười mấy bịnh nhân trong vòng 2 năm nhưng
chỉ thành công một trường hợp. Cuối thập niên 1940, sau thế chiến thứ 2, ông qua Mỹ, nghiên
cứu thêm. Năm 1948, người Mỹ đầu tiên được dùng máy này để lọc các độc tố trong máu. Vào
khoảng đầu thập niên 1950 chế tạo thương mại được một máy thận nhân tạo còn rất thô sơ, lúc
đầu còn dùng bồn của máy giặt Maytag để chứa cuộn ống cho dung dịch lọc; dành cho người
suy thận cấp tính, có thể phục hồi được (ví dụ ngộ độc thuốc, phỏng nặng, tai nạn truyền máu
không hợp với người bịnh [mismatched transfusion]), nhưng chưa dùng được cho những người
- bịnh thận mãn tính hay ở giai đoạn cuối (end stage renal disease/ESRD). Sau đó Bác sĩ người
Mỹ Belding Scribner mới tìm ra cách dùng máy thận nhân tạo cho giai đoạn cuối ESRD bằng
cách tạo một điểm tiếp cận với mạch máu của người bịnh ở cánh tay, có thể dùng nhiều lần
trong thời gian dài. Cần nơi có thể nối liền mạch máu bịnh nhân với máy lọc máu, để hút máu
ra khỏi cơ thể và trả lại máu cho cơ thể sau khi lọc; làm đi làm lại nhiều lần mà không bị tắt
nghẽn do mạch máu teo lại hay máu đông cục; do đó phải dùng những đường thông động mạch
tĩnh mạch (arterio-venous fistula), hay ống plastic gắn vào mạch máu (prosthetic arteriovenous
graft /AVG); dùng thuốc chống máu đông (anticoagulants). Năm 1962, Scribner lập ra y viện
đầu tiên lọc máu cho bịnh nhân (dialysis clinic), và sau đó chế tạo máy lọc máu di động
(portable) có thể lọc máu cho bịnh nhân ở nhà mình. Tuy nhiên hiện nay ở Mỹ, 90% bịnh nhân
đến các trung tâm lọc máu để được làm dialysis. Từ năm 1972, kỹ nghệ lọc máu được phát
triển nhanh nhờ chương trình bảo hiểm y tế người già Medicare của chính phủ Mỹ bắt đầu
chấp nhận đài thọ cho các bịnh nhân ESRD. Trước 1975, ở Nam Việt Nam hình như chỉ có
một máy lọc máu duy nhất ở Bịnh Viện Dã Chiến Mỹ dành cho quân đội Mỹ tại Sài Gòn. Hà
Nội có một máy loại sơ khai nhất xin được của Thuỵ điển và dùng từ năm 1972 đến 1996.
Hiện nay ở Mỹ, chừng nửa triệu người được lọc máu mỗi năm, tăng 47 lần trong 40 năm, vì
nhu cầu tăng do những bịnh kinh niên như áp huyết cao và bịnh tiểu đường (diabetes). Theo
ông Hà Huy Thắng - giám đốc BV Thận Hà Nội, hiện toàn quốc VN có 22.000 bệnh nhân đang
được điều trị bằng lọc máu chu kỳ tại 108 cơ sở y tế có dịch vụ này trên toàn quốc (Tuoi Tre
online).
Đây là một "big business" đem tiền lời rất lớn cho các nhà đầu tư, chi phí trung bình cho mỗi
bịnh nhân kể cả chi phí đi phòng cấp cứu là 88.000 đô la/năm. Các trung tâm lọc máu nở rộ
khắp nước Mỹ, số lượng hàng chục ngàn nơi, tương tự như số nhà hàng bách hoá Target.
Medicare chi 34 tỷ đô la/năm cho dialysis. Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong hàng năm ở Mỹ lại cao
nhất so với các nước tiên tiến, 3 lần cao hơn tỷ lệ của Nhật, có thể do phẩm chất huấn luyện
- nhân viên và săn sóc dinh dưỡng bịnh nhân kém hơn. Ở Việt Nam, năm 2017, tại tỉnh Hoà
Bình, 8 người chết và 8 người khác bị thiệt hại do sơ sót kỹ thuật (lượng fluoride quá cao trong
dung dịch, do sai sót, hydrofluoric acid (“Axit flohydric”) được dùng để tẩy rửa ống máy thận )
đang được xét xử tại toà án.
Dialysis (dia=xuyên qua, lysis= tách ra, chia ra), chúng ta thường gọi là "lọc máu", là một
phương pháp thay thế hoặc phụ trợ cho cơ năng thận của người bịnh lúc thận không còn đủ sức
thực hiện vai trò "lọc" của mình, nghĩa là:
1) thải ra ngoài (qua nước tiểu) các chất cơ thể không cần như urea (là chất biến dưỡng của các
chất đạm), các chất thuốc men cần thải ra ngả nước tiểu (waste removal)
2) giữ quân bình về nước và các chất điện giải (fluid and electrolyte balance). Muối natri (Na)
dư thừa làm giữ theo quá nhiều nước trong cơ thể (fluid retention) là một nguyên nhân quan
trọng gây chứng cao áp huyết (hypertension) ở bịnh nhân bị suy cơ năng thận.
Riêng về cơ năng nội tiết của thận , máy lọc máu không thay thế được.
Máy lọc máu
Trong máy lọc máu (dialysis machine) , máu từ người bịnh được cho chạy vào những ống nhỏ
li ti của máy (dialyzer, tương tự như những tiểu cầu trong thận), trong những ống đó, máu chảy
tiếp giáp với dung dịch của máy lọc (dialyzate) chảy ngược dòng. Hai bên máu và dung dịch
dializate không trộn lẫn với nhau mà lại được được tiếp cận với nhau qua một màng ngăn bán-
thẩm-thấu (semi-permeable membrane), có nghĩa là chỉ những phân tử có tầm vóc nhỏ mới đi
qua được, còn những tế bào như hồng cầu, bạch cầu của máu thì không qua bên kia được.
- Có hai cơ chế khác nhau.
-Một cơ chế gọi là diffusion (khuếch tán) cho phép các chất có quá nhiều trong máu người bịnh
cần được thải bớt ra ngoài cơ thể, hiện diện trong máu ở nồng độ cao (ví dụ potassium,
phosphorus, urea) di chuyển từ máu qua dung dịch của máy lọc nơi đó không có chất đó (vd
urea) hoặc chứa chất đó ở mức bình thường (ví dụ potassium, calcium).
-Cơ chế thứ hai là ultrafiltration ("siêu lọc"), giúp lấy bớt lượng nước dư trong cơ thể người
bịnh di chuyển qua dịch của máy lọc máu và sẽ được thải ra ngoài, do áp suất trong dung dịch
này âm (negative pressure).
Sau đó thì máu đã được lọc xong được trả lại cho cơ thể người bịnh.
Như vậy, chúng ta thấy máy lọc máu đem một lượng nước nào đó cùng với một số chất thải ra
khỏi cơ thể, thay vì nước và chất thải phải được thải ra dưới hình thức nước tiểu. Máy có thể
lấy ra vài lít nước từ cơ thể người bịnh trong mỗi buổi 4 tiếng đồng hồ lọc máu cho người bịnh,
thường là 3 lần một tuần theo quy định của Medicare là cơ quan trả tiền chi phí cho bịnh nhân
già ở Mỹ. Lượng nước và chất thải cần lấy ra căn cứ trên tính toán của bác sĩ phụ trách lọc
máu, mục đích là giữ cân nặng của bịnh nhân sau khi dialysis ở mức gọi là "dry weight"
(“trọng lượng khô”, trọng lượng mà nếu cơ năng thận bình thường, người bịnh không dư nước,
sẽ cân nặng ở mức đó). Thường mức "trọng lượng khô" bs nhắm tới thấp hơn trọng lượng bình
thường lúc thận còn mạnh khoẻ, để bù vào khoảng giữa các buổi lọc máu, lúc lượng nước dư
có thể tích tụ lại và làm áp huyết tăng. Tuy nhiên, chỉ tiêu "trọng lượng khô" sau khi lọc máu,
nếu thấp quá, có thể làm người bịnh mệt mỏi quá đáng hay áp huyết quá thấp (hypotension).
Tuỳ theo khả năng còn dư lại của thận, tuỳ theo loại bịnh thận, tuỳ theo nước còn dư thừa trong
cơ thể hay không, thận của bịnh nhân có thể tiết ra một lượng nước tiểu nào đó. Tuy nhiên,
- thường sau 6 tháng lọc máu, đa số bịnh nhân bị bịnh thận giai đoạn cuối (stage 5) không còn
sản xuất nước tiểu nữa, tình trạng này thường gọi là vô-niệu (anuria).
Tất nhiên, trên đây chỉ là một số kiến thức tổng quát. Nói chung, thân nhân cần hỏi các y tá hay
bác sĩ săn sóc cho mình vì họ ở trong chuyên khoa đó và hiểu rõ những gì họ làm. Nếu có nghi
vấn, hay chưa hiểu rỏ, cần hỏi lại cho kỹ.