Trang phục truyền thống Việt Nam
Việt Nam bao gồm nhiều dân tộc, trong đó người Việt có số dân đông nhất và là một trong những tộc người có gốc tích lâu đời trên dải đất này. Mỗi dân tộc mang đậm nét một bản sắc văn hóa độc đáo. » Xem thêm
Tóm tắt nội dung tài liệu
- TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG
VIỆT NAM
- TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
Ý nghĩa của trang phục Việt Nam
Việt Nam bao gồm nhiều dân tộc, trong đó người Việt có số dân đông nhất và là
một trong những tộc người có gốc tích lâu đời trên dải đất này. Mỗi dân tộc mang đậm
nét một bản sắc văn hóa độc đáo. Do đó, trang phục nói chung của từng tộc người nói
riêng thật phong phú đa dạng và đầy tính năng qua từng thời kỳ của lịch sử Việt Nam từ
trước đến ngày nay.
Thông qua cái nhìn lịch đại kết hợp với đồng đại, ta thấy trang phục người Việt,
từ dạng kiểu đơn sơ, giản dị, đẹp như tâm hồn người Việt cổ tiếp tục phát triển, hài hòa
với môi trường khắc nghiệt của thiên nhiên nhiệt đới, khỏe khoắn với bao cuộc chiến
tranh chống ngoại xâm liên miên. Trang phục người Việt là một trong những gì thân thiết
nhất đối với con người Việt Nam. Sự gắn bó có tâm hồn này chính là điều xuất phát từ
những trái tim yêu thương quê hương đất nước.
Trang phục là một nhu cầu vật chất quan trọng trong đời sống của nhân dân ta.
Với tính chất thực dụng, nó là một sản phẩm; dưới góc độ thẩm mỹ, nó lại là một tác
phẩm. Chức năng cơ bản trước nhất của nó là bảo vệ con người. Về mặt này, trang phục
dân tộc Việt đã đạt được hiệu quả cao.
Chúng tôi đã bước đầu trình bày về sự chuyên môn hóa các chức năng của trang
phục người Việt trong lao động, hội hè, chiến đấu và các mặt khác. Chúng tôi muốn nói
thêm: đối với người Việt, trang phục còn có chức năng phòng bệnh, trị bệnh. Với khí hậu
ẩm thấp của vùng nhiệt đới gió mùa, bệnh phong thấp phổ biến, người ta chọn gỗ đặc
biệt để làm guốc cho người già, vật liệu đặc biệt để làm mũ cho trẻ em. Thắt lưng và
trang sức, một vài thứ, cũng có tác dụng đó. Bên cạnh xu hướng này, một xu hướng
thường thấy ở người Việt là sử dụng một vật kiêm nhiều chức năng. Chiếc nón lá đã được
nhiều người đề cập đến. Chiếc khăn trùm đầu, còn để quàng cổ, vắt vai, làm khăn lau và
gặp lúc bất ngờ cũng có khi là vũ khí phòng hộ. Do đó, chúng ta thấy sự ra đời của đôi
dép cao su thời kháng chiến chống Pháp chẳng phải là sự kiện ngẫu nhiên, mà mọi sự
sáng tạo dựa trên cái gốc vững chắc của bản lĩnh dân tộc. Vấn đề đa chức năng của trang
phục người Việt, trong nhiều trường hợp chưa hẳn đã là vì nghèo. Đi bộ vượt Trường Sơn,
dù là người giàu, với đôi dép lốp vẫn là phương thức tối ưu nhất.
Thời gian gần đây, nhiều người đề cập đến chức năng vệ sinh từ màu đen của
chiếc quần phụ nữ. Nếu chịu khó xét điều này trên quan điểm hệ thống, sẽ thấy rõ trong
hoàn cảnh kinh tế và lao động hiện nay, vấn đề không dễ dàng giải quyết ngay được. Mặt
khác, việc này còn gắn với thói quen thẩm mỹ, còn liên quan đến phạm trù quan niệm,
chứ chưa hẳn đã là chuyện tiết kiệm, sợ tốn kém. Nhiều người chỉ thấy trang phục là đối
tượng của thị giác nên đòi hỏi nó phải biểu hiện được những chuẩn mực cho sự nhìn. Để
đáp ứng yêu cầu này, trong suốt quá trình lịch sử, trang phục người Việt đã có sự chọn
lọc về hình dáng, kiểu thức, màu sắc, hoa văn trang trí, chất liệu. Nhưng nhìn qua bộ
trang phục của người Việt từ đầu thế kỷ XX trở về trước, chúng ta thấy rõ ngoài việc đáp
ứng yêu cầu nhìn, còn có cả nghe, mùi vị và tất nhiên dẫn đến cả xúc cảm nữa. Có thể
nhắc đến trang phục của người Việt cổ ở Làng Vạc vào thời dựng nước với những âm
vang của chất liệu đồng thau cho đến bộ xà tích bạc đầu thế kỷ này. Phải chăng, tiếng
sột soạt của bộ áo váy mới cũng là sự dụng tâm thích thú của người mặc. Bên cạnh tầng
- lớp giàu sang, quý phái biết sử dụng các loại hương liệu đắt tiền để ướp quần áo, nhân
dân thường dùng những thứ phổ biến như: hạt mùi để bọc áo khăn; lá mùi, lá sả... để gội
đầu, hoa bưởi, hoa nhài... để cài tóc. Việc chọn lựa các chất để nhuộm màu, cũng tạo cho
áo quần những mùi vị nhất định. Phần trong bài chúng tôi mới nói đến việc dùng dầu xoa
tóc, nhưng thật ra ở người Việt còn có nhiều thứ dầu, rượu đặc biệt để xoa bóp cơ thể
nhằm chống côn trùng, bảo vệ sức khỏe, bảo vệ da... Sự hình thành những hương vị này
liên quan đến những tập quán ở từng địa phương nữa.
Trang phục người Việt còn được lưu ý dưới góc độ sử liệu. Một cái nhìn thoáng
nhanh qua áo quần cũng có thể giúp chúng ta khám phá ra được cái mà các nhà sử học
gọi là niên đại tương đối. Việc đoán định niên đại tuyệt đối của trang phục người Việt là
chuyên môn hẹp và sâu của rất ít nhà nghiên cứu. Nói chung với những sử liệu này,
chúng ta có thể ghi nhận được nhiều dấu ấn của các thời đại lịch sử. Tính đa dạng của
trang phục người Việt thể hiện rõ nhất qua từng địa phương. Có khi tính đa dạng này
hoàn toàn do kỹ thuật. Nhân dân lao động với áo quần bằng vải, thường hay mặc trước
rồi mới nhuộm sau. Do thị hiếu và cũng vì lý do khách quan để cho bền màu, người ta
thường nhuộm lót trước: lót xanh cho màu đen, lót đỏ cho màu gụ v.v... Vì thế tuy chỉ
cùng một bộ, nhưng Đông Xuân, ta gặp nhiều người mặc màu cháo lòng, màu xanh, màu
gạch non... đến Hè Thu lại là những áo quần màu nâu, màu đen, màu gụ v.v...
Từ khi giành lại được quyền độc lập, tự chủ vào thế kỷ X, các vương triều phong
kiến đã lưu ý đến một sự thống nhất trong đa dạng, với những quy chế, thể lệ. Tính
thống nhất này cũng có thể nhận thức được qua tính giai cấp trên trang phục, ở từng
mẫu áo, kiểu quần, màu sắc, hoa văn, trang điểm. Trang phục thể hiện tôn ti, trật tự
phong kiến, ngăn cấm mọi sự vi phạm. Ngày nay, trang phục của Quân đội nhân dân đã
"vượt khung" khỏi phạm vi của một tộc người cụ thể, trở thành một sự thống nhất Việt
Nam.
Đứng ở góc độ tin học, trang phục người Việt còn là những đặc trưng chỉ định sự
khác biệt giữa người Việt và các dân tộc anh em trên đất nước ta, phân biệt được một số
mặt như nghề nghiệp, giới tính, thị hiếu thẩm mỹ... của từng vùng. Một cái nhìn khái quá
thông qua sự tiến triển thăng trầm của lịch sử giúp chúng ta khẳng định được bản lĩnh
vững vàng của phong cách người Việt. Không ít nhà nghiên cứu đã lưu ý đến tinh thần
đấu tranh chống đồng hóa của người Việt thông qua trang phục. Điều này đúng, nhưng
chưa đủ. Đối với kẻ thù xâm lược từ phương Bắc đem theo chủ trương đồng hóa triệt để
bằng cách bắt nhân dân ta thay đổi trang phục, đầu tóc, thì nhân dân ta ngoan cường
đấu tranh chống lại, nhiều khi rất quyết liệt. Thời cận đại, đối với bọn địch xâm lăng
phương Tây từ biển vào, những nhà nho yêu nước, ví dụ như Nguyễn Đình Chiểu vẫn giữ
phong cách: để búi tóc, mặc áo dài, đội khăn đóng, không dùng xà phòng... Nhưng đến
một thời kỳ khác, nhân dân ta lại có phong trào cắt tóc ngắn, mặc áo ngắn... Sự thay đổi
về mặt hình thức này lại là một phong trào tiến bộ, cho nên đã bị thực dân Pháp lái sang
những xu hướng thẩm mỹ về trang phục không lành mạnh. Khi đế quốc Mỹ nhảy vào
miền Nam Việt Nam, chúng lại khuyến khích nhân dân ta Mỹ hóa trang phục. Để đấu
tranh với bọn thực dân mới, chống lại cái "mới" lố lăng, cầu kỳ, xa lạ, phô trương..., nhân
dân các đô thị miền Nam lại tìm cách trở về truyền thống.
Trong nước, thời phong kiến, đấu tranh với giai cấp thống trị, bản lĩnh của nhân
dân ta cũng theo một xu thế ấy. Ví dụ như chuyện cấm mặc váy của Minh Mạng. Về lý
mà nói, cái váy thời Hùng Vương của người Việt cổ đã rất đẹp. Cái quần là một mẫu trang
phục ngoại lai, chúng ta tiếp thu được từ các tộc du mục. Trong việc này, ngoài vấn đề
chuyên chế và dân chủ, còn có chuyện tính bản địa và ngoại lai. Gần đây một thời kỳ, có
cuộc vận động, hô hào phụ nữ nên mặc váy. Giới phụ nữ đã không chấp nhận. Nhưng ở
- nam giới, ngày nay hầu hết đều mặc áo quần mà ta vẫn quen gọi là Âu phục. Đây là một
dẫn chứng cho thấy ở người Việt không hề có sự bài ngoại mù quáng. Họ có thể sẵn sàng
tiếp thu những mẫu mới từ bên ngoài một cách có ý thức và có sáng tạo để tồn tại lâu
dài hoặc chỉ với một thời gian nhất định, nhưng đều được Việt hóa nhanh hoặc dần dần
từng bước.
Trang phục cũng là một hiện tượng văn hóa về mặt vật chất, hay văn hóa vật
chất. Các chương trên đã cho thấy những điều kiện kinh tế, xã hội có ý nghĩa quan trọng
đối với trang phục người Việt. Trước kia, bên cạnh nghề trồng lúa nước, nghề trồng dâu,
nuôi tằm là hoạt động sản xuất cơ bản trong đời sống của xã hội người Việt. Vào những
thế kỷ đầu Công Nguyên, nhiều người nước ngoài tiếp xúc với Lạc Việt đã phải thốt lên
rằng: cây bông ở đây có thể giải quyết được áo chăn cho thiên hạ. Dĩ nhiên cách nói có
phần khoa trương nhưng đã lột tả được sự giàu có về nguyên liệu quan trọng này. Về
hàng tơ, chưa kể các loại trong Cung Đình, cho đến thế kỷ XVIII, chúng ta thống kê được
gần 30 loại mặt hàng, mỗi loại còn có nhiều kiểu khác nhau, ví dụ như gấm, có gấm the,
gấm láng, gấm mây, gấm hoa...
Đứng ở góc độ văn hóa tinh thần, trang phục còn có ý nghĩa về ý thức chính trị,
về đạo đức con người, về quan niệm thẩm mỹ... Sự tự khẳng định mình thông qua trang
phục, nhất là đối với thanh niên, là điều cần phải hướng dẫn, giáo dục hơn là phê phán,
chỉ trích. Như vậy, trang phục là một nhu cầu vật chất nhưng đồng thời còn là một hiện
tượng về văn hóa. Với quan điểm xây dựng nền văn hóa mới và con người mới là điều
cần và có thể thực hiện từng bước, từng phần ngay từ hôm nay, và "không phải trình độ
văn hóa của xã hội phụ thuộc một cách máy móc vào trình độ phát triển kinh tế", chúng
ta cần xác định dù xã hội ta còn nhiều khó khăn, thiếu thốn nhưng không nhất thiết phải
chờ đến khi thật giàu có, sung túc, lúc đó mới quan tâm đến vấn đề trang phục.
Dân tộc Việt có câu "Đói cho sạch, rách cho thơm" vừa là để nhắc nhở những
yêu cầu cụ thể cho cung cách ăn mặc, nhưng đồng thời còn có mục đích giáo dục một
phẩm chất thanh cao, một nếp sống đạo đức, dù trong trường hợp nghèo, đói. Chúng ta
không hẹp hòi, bảo thủ trước sự phát triển, thay đổi các kiểu cách trang phục lành mạnh,
nhất là trong thanh niên, nhưng không thể công nhận những hiện tượng may mặc đua
đòi, chạy theo "mốt" lố lăng, phô trương, xa hoa, lãng phí... xa rời truyền thống văn
hóa tốt đẹp của dân tộc. Đồng thời cũng cần phản đối hiện tượng cho rằng nền kinh tế
của ta chưa phát triển cao, nên có thể ăn mặc tùy tiện, cẩu thả, thiếu thẩm mỹ. Từ đó
làm giảm giá trị cao đẹp của con người và còn có thể nảy sinh những hậu quả xấu về
nhiều mặt. Vì trang phục, trong những chừng mực nhất định, còn là phương tiện rất đắc
lực của các quan điểm tư tưởng, các ý đồ chính trị, không chỉ thuộc sở thích hay thị hiếu
của cá nhân mà đây là cả một vấn đề văn hóa, một vấn đề xã hội, có tác dụng góp phần
thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, góp phần xây dựng con người mới hoặc ngược lại.
Do đó, trang phục, là đối tượng của thị giác, một trong hai giác quan mà Các
Mác cho rằng nó dễ cảm nhận cái đẹp một cách tinh tế, phải là một biểu hiện bên ngoài
của một nội dung bên trong mang đầy đủ những chuẩn mực lành mạnh, hài hòa, thanh
lịch, thực tiễn...
Từ việc tìm hiểu trang phục của những người Việt cổ đến trang phục dân tộc Việt
ngày nay và trang phục của các tổ chức chung trong xã hội Việt Nam, chúng ta thấy rõ
sự tiếp nối vững vàng giữa truyền thống và hiện đại, trong điều kiện giao lưu văn hóa đa
dạng và thường xuyên đã có những sự sáng tạo nhuần nhị và cởi mở giữa tính dân tộc và
tính quốc tế. Ngày nay, tuy chưa có nhiều cuộc vận động cụ thể, sát sao và thường
xuyên về trang phục dân tộc Việt, cũng như nhân dân Việt Nam nói chung, nhưng từ các
nghị quyết lớn về kinh tế và văn hóa của Đảng, chúng ta có thể nhận thức được nội dung
- và tính chất của những điều mà chúng ta đang quan tâm nằm trong phương hướng
chung về sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Quan niệm về mặc và nguồn gốc nông nghiệp
trong chất liệu may mặc của người Việt
Đối với con người, sau ăn thì đến Mặc là cái quan trọng. Nó giúp cho con người
đối phó được với cái nóng, cái rét của thời tiết, khí hậu. Nhân dân ta nói một cách đơn
giản : Được bụng no, còn lo ấm cật .Vì vậy, cũng như trong chuyện ăn, quan niệm về
mặc của người Việt Nam trước hết là một quan niệm rất thiết thực : “Ăn lấy chắc, mặc
lấy bền và Cơm ba bát, áo ba manh, đói không xanh, rét không chết”.
Nhưng mặc không chỉ để đối phó với môi trường, mặc có một ý nghĩa xã hội rất
quan trọng : “Quen sợ dạ, lạ sợ áo”. Người ta hơn kém nhau nhiều khi bởi nó :
“Hơn nhau cái áo manh quần
Thả ra ai cũng bóc trần như ai”
và người ta khổ sở nhiều khi cũng vì nó:
“Cha đời cái áo rách này
Mất chúng mất bạn vì mày áo ơi!”
Mặc trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong mục đích trang điểm,
làm đẹp cho con người:
“Người đẹp về lụa, lúa tốt về phân, chân tốt về hài, tai tốt về hoa”.
Mỗi dân tộc có cách ăn mặc và trang sức riêng, vì vậy, cái mặc trở thành biểu
tượng của văn hóa dân tộc. Mọi âm mưu đồng hóa sau khi xâm lăng đều bắt đầu từ việc
đồng hóa cách ăn mặc.
Từ nhà Hán cho đến Tống, Minh, Thanh, các triều đại phong kiến Trung Quốc
xâm lược luôn kiên trì dùng đủ mọi biện pháp buộc dân ta ăn mặc theo kiểu phương Bắc
song chúng luôn thất bại. Các vua nhà Lí, Trần cho dạy cung nữ tự dệt vải, không dùng
vải vóc nhà Tống. Trong lời hiệu triệu tướng sĩ đánh quân Thanh, Quang Trung viết :
“Đánh cho để dài tóc, đánh cho để đen răng...”
Vậy cái riêng trong cách mặc của người Việt là gì? Đó trước hết là cái chất nông
nghiệp, mà chất nông nghiệp thì thể hiện rõ nhất trong chất liệu may mặc.
Ảnh minh hoạ
Chất liệu may mặc, để đối phó hữu hiệu với môi trường tự nhiên, người phương
Nam ta sở trường ở việc tận dụng các chất liệu có nguồn gốc thực vật là sản phẩm của
nghề trồng trọt, cũng là những chất liệu may mặc mỏng, nhẹ, thoáng, rất phù hợp với
- xứ nóng. Trước hết, đó là tơ tằm. Cùng với nghề trồng lúa, nghề tằm tang có từ rất
sớm. Trong những di chỉ khảo cổ thuộc hậu kì đá mới cách nay khoảng 5000 năm (như
di chỉ Bàu Tró), đã thấy có dấu vết của vải có dọi xe chỉ bằng đất nung. Cấy lúa và
trồng dâu, nông và tang - đó là hai công việc chủ yếu luôn gắn liền nhau của người
nông nghiệp Việt Nam. Người Trung Hoa từ xưa cũng đã luôn xem đó là hai đặc điểm
tiêu biểu nhất của văn hóa phương Nam; trong chữ "Man" mà Trung Hoa xưa dùng để
chỉ người phương Nam có chứa bộ trùng chỉ con tằm.Từ phương Nam, nghề tằm tang đã
được đưa lên phương Bắc. Sách Hoàng Đế nội kinh nói về việc này một cách hình tượng
là "khi Hoàng Đế chặt đầu Si Vưu thi thần Tằm Tang dâng lụa cho ông" (hiểu là : khi bộ
lạc phương bắc do Hoàng Đế làm thủ lĩnh chiến thắng bộ lạc phương Nam do Si Vưu làm
thủ lĩnh thì người phương Bắc tiếp thu được bí quyết nghề trồng dâu nuôi tằm của
phương Nam). Các sách cổ Trung Quốc như Thủy kinh chú, Tam đô phú, Tề dân yếu
thuật đều nói rằng đến đầu công nguyên, trong khi Trung Quốc một năm chỉ nuôi được
3 lứa tằm thì năng suất tằm ở Giao Chỉ, Nhật Nam, Lâm ấp một năm đạt được tới 8 lứa.
Để có được nhiều lứa tằm trong năm, tổ tiên ta đã lai tạo ra được nhiều giống tằm khác
nhau phù hợp với các loại thời tiết nóng, lạnh, khô ẩm. Đây là một nghề hết sức vất vả
cực nhọc : Làm ruộng ba năm không bằng chăn tằm một lứa; Làm ruộng ăn cơm nằm,
nuôi tằm ăn cơm đứng. Từ tơ tằm, nhân dân ta đã dệt nên nhiều loại sản phẩm rất
phong phú : tơ, lụa, lượt, là, gấm, vóc, nhiễu, the, đoạn, lĩnh, dũi, địa, nái, sồi, thao,
vân,... mỗi loại lại có hàng mấy chục mẫu mã khác nhau.
Đến TK XVI-XVIII, khi mà tơ lụa Trung Quốc sản xuất với số lượng nhiều đã
chiếm lĩnh thị trường thế giới thì tơ lụa Việt Nam vẫn được đánh giá rất cao do chất lượng
của nó. Năm 1749,
một người phương Tây là Poivre nhận xét: "Tơ lụa Đàng Trong so với Trung Quốc
thì hơn hẳn về phẩm chất và sự tinh tế. Tơ đẹp nhất là của vùng Quảng Ngãi. Người
Trung Quốc mua đi rất nhiều và kiếm lời được từ 10-15%". Trong số 27 mặt hàng chính
mà Nhật Bản nhập của Việt Nam thời kì này (ghi lại trong sách Hòa Hán tam tài đồ
sương) thì riêng vải lụa đã chiếm 11 mặt hàng. Thời thuộc Pháp, tơ lụa Việt Nam đã trở
thành một nguồn lợi to lớn. Riêng trong khoảng 1909-1913, hằng năm Việt Nam xuất
sang Pháp 183,3 tấn tơ lụa các loại. Theo điều tra của P- Gourou, trong số 108 nghề thủ
còng khác nhau có ở đồng bằng Bắc Bộ vào năm 1935 thì nghề dệt đứng hàng đầu với
tổng số trên 54 nghìn thợ dệt. Ngoài tơ tằm, nghề dệt truyền thống của Việt Nam còn sử
dụng các chất liệu thực vật đặc thù khác như tơ chuối, tơ đay, gai, sợi bông .
Vải tơ chuối là một mặt hàng đặc sản của Việt Nam mà đến TK VI, kĩ thuật này
đã đạt đến trình độ cao và rất được người Trung Quốc ưa chuộng. Họ gọi loại vải này là
"vải Giao Chỉ". Sách Quảng chí chép : "Thân chuối xé ra như tơ, đem dệt thành vải... Vải
ấy dễ rách nhưng đẹp, màu vàng nhạt, sản xuất ở Giao Chỉ". Cho đến tận TK XVIII, loại
vải này vẫn rất được ưa chuộng, Cao Hùng Trưng trong sách An Nam chí nguyên còn ca
ngợi : "loại vải này mịn như lượt là, mặc vào mùa nực thì hợp lắm". Vải dệt bằng sợi tơ
đay, gai cũng xuất hiện khá sớm. Đất đai và khí hậu Việt Nam rất thích hợp cao những
loại cây này phát triển, tổ tiên ta không những biết tận dụng khai thác nguồn nguyên liệu
sẵn có này mà còn thuần dưỡng chúng thành loại cây trồng phổ biến. Sách Trung Quốc
thời Hán, Đường đều nói rằng đay, gai ở An Nam mọc thành rừng, dùng để dệt vải. Vải
đay gai bền hơn vải tơ chuối nhiều; đem cây đay gai ngâm nước cho thịt thối rữa ra, còn
lại tơ đem xe thành sợi dệt vải thì vải cũng mịn như lượt là . Sử sách nước ta ghi: "cứ mỗi
tháng vào ngày mồng một, thường triều đều mặc áo tơ gai ".Nghề dệt vải bông xuất hiện
muộn hơn nhưng ít ra cũng từ các thế kĩ đầu công nguyên. Sách vở Trung Hoa gọi loại
vải này là vải cát bối. Sách Lương thư giải thích: "Cát bối là tên cây, hoa nở giống như
- lông ngỗng, rút lấy sợi dệt thành vải trắng muốt chẳng khác gì vải đay". Kĩ thuật trồng
bông dệt vải từ phương Nam du nhập sang Trung Hoa vào TK X đến TK XI, vải bông trở
thành mốt đến nỗi người Trung Quốc dương thời kêu là "vải bông mặc kín cả thiên hạ".
Trong khi sở trường của phương Nam ta là các loại vải nguồn gốc thực vật thì
người phương Bắc có sở trường dùng da thú là sản phầm của nghề chăn nuôi làm chất
liệu mặc, thêm vào đó, da (và lông) thú lại rất phù hợp với thời tiết phương Bắc lạnh.
Mùa lạnh ở Việt Nam, bên cạnh cách mặc đơn giản và rẻ tiền nhất là mặc lồng nhiều áo
vào nhau, người ta may độn bông vào áo cho ấm (áo bông, áo mền…). Người nông thôn
còn dùng loại áo làm bằng lá gồi, gọi là áo tơi mặc đi làm đồng vừa tránh rét,tránh mưa,
vừa tránh gió.
Cách thức trang phục qua các thời đại và
tính linh hoạt trong cách mặc của người Việt
Theo chủng loại và chức năng, trang phục gồm có
đồ mặc phía trên, đồ mặc phía dưới, đồ đội đầu, đồ đi chân
và đồ trang sức. Theo mục đích, có trang phục lao dộng và
trang phục lễ hội. Theo giới tính, thì có sự phân biệt trang
phục nam và trang phục nữ. Cách thức trang phục của
người Việt qua các thời đại bị chi phối bởi hai nhân tố
chính, của môi trường tự nhiên hoặc có nguồn gốc từ môi
Ảnh minh họa trường tự nhiên - đó là: khí hậu nóng bức của vùng nhiệt
đới và công việc lao động nông nghiệp trồng lúa nước.
>> Đồ mặc phía dưới
Đồ mặc phía dưới tiêu biểu hơn cả, ổn định hơn cả của người phụ nữ Việt Nam
qua các thời đại là cái váy.
Từ thời Hùng Vương, phụ nữ đã mặc váy, lối mặc đó được bảo lưu một cách kiên
trì ở nhiều nơi cho tới tận giữa thế kỉ này. Nó là đồ mặc điển hình của cả vùng Đông Nam
Á và phổ biến đến mức, ở một số dân tộc Đông Nam Á, không chỉ phụ nữ, mà cả nam
giới cũng mặc váy. Sở dĩ như vậy là vì mặc váy không chỉ mát, đối phó được một cách có
hiệu quả với khí hậu nóng bức, mà còn rất phù hợp với công việc đồng áng.
Là thứ đồ mặc phía dưới đặc thù của phương Nam, chiếc váy khác hắn với chiếc
quần có nguồn gốc từ gốc du mục Trung Á : thứ đồ mặc này phù hợp với công việc chăn
nuôi cưỡi ngựa và khí hậu phương Bắc giá lạnh. Với âm mưu đồng hóa, phong kiến Trung
Hoa đã nhiều lần muốn đưa chiếc quần vào thay thế cho chiếc váy của phụ nữ nước ta.
Đến thời thuộc Minh, chiếc quần phụ nữ có lẽ đã phổ biến được ở một bộ phận thị dân.
Bởi vậy mà vào năm 1665, vua Lê Huyền Tông đã phải ra chiếu chỉ cấm phụ nữ : không
được mặc quấn để bảo tồn quốc tục mặc váy. Trong khi đó đến cuối TK. XVII, để tạo nên
sự đối lập với Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở trong Nam đã lệnh cho trai gái Đàng Trong
dùng quần áo Bắc quốc (Trung Hoa) để tỏ sự biến đổi. Thành ra chiếc quần gốc du mục
cuối cùng đã thâm nhập vào miền Nam sớm hơn miền Bắc. Đến năm 1828, vua Minh
Mạng tiếp tục học theo Trung Hoa một cách triệt để, ra chiếu chỉ cấm dân mặc váy, và đã
gây nên một sự phản ứng mạnh mẽ trong dân chúng ở vùng Bắc Hà. Phản ứng bởi lẽ
người dân Việt rất tự hào về chiếc váy, rất tự tin vào bản sắc và bản lĩnh văn hóa của
mình : “Cái trống thì thủng hai đầu. Bên ta thì có , bên tàu thì không!”
- Đối với nam giới, đồ mặc phía dưới ban đầu là chiếc khố. Khố là một mảnh vải
dài quấn một hoặc nhiều vòng quanh bụng và luồn từ trước ra sau, đuôi khố thường thả
phía sau (cũng có khi thả về phía trước). Khố mặc mát, phù bợp với khí hậu nóng bức và
dễ thao tác trong lao động. Vì vậy, nó không chỉ là đồ mặc điển hình thời Hùng Vương mà
còn được duy trì ở bộ phận dân chúng khá lâu về sau này. Thời Nguyễn các sắc lính tuy
phân biệt với nhau bằng màu của thắt lưng (lễ phục) hoặc xà cạp (thường phục), nhưng
vẫn dược gọi là "khố": lính khố xanh (địa phương), lính khố đỏ (quân thường trực), lính
khố vàng (phục vụ vua). Ngày nay, tuy nam giới không còn đóng khố, nhưng do sự chi
phối của khí hậu, lối cởi trần mặc độc một chiếc quần đùi (quần xà lỏn) lúc ở nhà vào
mùa nóng ở người lớn cũng như trẻ con, nông thôn cũng như thành thị, thực ra cũng
chẳng khác cách mặc cởi trần đóng khố thời Hùng Vương bao xa!
Khi chiếc quần gốc du mục thâm nhập vào thì nam giới là bộ phận tiếp thu nó
sớm nhất. Điều này thật dễ hiểu, bởi lẽ nam giới (dương tính) hướng ngoại nên dễ hấp
thụ văn hóa bên ngoài hơn. Quần đàn ông có hai loại : quần lá tọa và quần ống sớ. Quần
lá tọa cho ống rộng và thẳng, đũng sâu, cạp quần (miền Nam gọi là lưng quần) to bản.
Khi mặc, người ta buộc dây thắt lưng ra ngoài cạp rồi thả phần cạp thừa phía trần rủ
xuống ra ngoài thắt lưng (vì thế nên có tên gọi là "lá tọa"). Quần lá tọa chính là loại quần
được sáng tạo phù hợp với môi trường khí hậu nóng bức của ta (do có ống rộng nên mặc
mát chẳng thua kém gì cái váy của phụ nữ), và có thể sử dụng rất linh hoạt thích hợp với
lao động đồng áng đa dạng - ở mỗi loại ruộng khác nhau (ruộng cạn, ruộng nước, nước
nông, nước sâu), người đàn ông có thể điều chỉnh cho ống quần cao hoặc thấp rất dễ
dàng bằng cách kéo cạp (lưng) quần lên hoặc xuống (chính vì vậy mà quần có đũng
sâu). Ngày lễ hội, nam giới dùng quần ống sớ : quần màu trắng có ống hẹp, đũng cao
gọn gàng, đẹp mắt.
>> Đồ mặc phía trên
Đồ mặc phía trên của phụ nữ ổn định nhất qua các thời đại là
cái yếm. Yếm là đồ mặc mang tính chất thuần tuý Việt Nam, thường do
phụ nữ tự cắt-may-nhuộm lấy, với nhiều kiểu cổ, nhiều màu phong
phú: yếm nâu để đi làm thường ngày ở nông thôn; yếm trắng thường
ngày ở thành thị; yếm hồng, yếm đào, yếm thấm... dùng vào những
ngày lễ hội. Yếm dùng để che ngực cho nên nó trở thành biểu tượng
của nữ tính (khi giặt phải phơi phóng ở chỗ kín đáo), và có sức quyến
rũ mãnh liệt:
“Ba cô đội gạo lên chùa,
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư. Ảnh
minh họa
Sư về sư ốm tương tư
ốm lăn ôm lóc cho sư trọc đầu...”
Yếm và những bộ phận của yếm trở thành biểu tượng của tình yêu:
“Yếm trắng mà vã nước hồ;
Vã đi vã lại anh đồ yêu thương”;
Để đối phó với khí hậu nóng bức, phụ nữ khi làm lụng, nhất là trong bóng râm,
dù là vào thời Hùng Vương hay là đầu TK. XX vẫn thường mặc váy-yếm với hai tay và
lưng để trần. Phụ nữ nhiều dân tộc ít người đến nay vẫn mặc váy cởi trần.
- Đàn ông khi lao động thì thường cởi trần. Các thành ngữ "váy vận, yếm mang"
(đối với phụ nữ) và "cởi trần đóng khố" (đối với nam giới) miêu tả rất chính xác trang
phục lao động truyền thống. Cách mặc với mục đích đối phó với môi trường tự nhiên này
dần dần trở thành một quan niệm về cái đẹp của người Việt Nam cổ truyền: “Đàn ông
đóng khố đuôi lươn. Đàn bà yêm thắm hở lườn mới xinh”. Khi lao động và trong những
hoạt động bình thường, nam nữ cũng thường mặc áo ngắn có hai túi phía dưới, có thể xẻ
tà hai bên hông hoặc bít tà; ngoài Bắc gọi là áo cánh, trong Nam gọi là áo bà ba, áo có
đính cúc nhưng phụ nữ khi mặc thường không cài cúc vừa để cho mát, vừa để hở cái yếm
trắng làm duyên.
Dịp lễ hội, người Việt thường mặc áo dài , từ TK. XIX đến sau 1945 ở miền Trung
và Nam, cũng như ở một số vùng miền Bắc, người ta mặc áo dài thường xuyên, kể cả khi
lao động nặng nhọc, áo dài phụ nữ phân biệt áo tứ thân và năm thân. Phổ biến hơn cả là
áo tứ thân. Áo tứ thân may từ bốn mảnh vải, hai mảnh sau ghép liền ở giữa sống lưng,
đằng trước là hai tà (vạt) áo không có khuy; khi mặc bỏ buông hoặc buộc thắt hai vạt
vào nhau. Theo sách Văn hiên thông khảo của Mã Đoan Lâm. ở Giao Chỉ thời xưa, "người
có địa vị trong xã hội đều mặc áo dài... Lễ lạt thì mặc thêm áo rộng màu thẫm trùm lên,
gồm có bốn vạt, gọi là tứ thân ". Áo năm thân cũng may như áo tứ thân, chỉ có điều vạt
trước phía trái may ghép từ hai thân vải, thành ra rộng gấp đôi vạt phải, để bên ngoài,
gọi là vạt cả, đè lên vạt phải để bên trong, gọi là vạt con. Với cái áo năm thân có vạt trái
lớn hơn và nằm ngoài vạt phải, ta lại bất gặp một biểu hiện đầy thú vị của triết lí coi
trọng bên trái (bên Đông, bên nông nghiệp) hơn bên phải (bên Tây, bên du mục). Cùng
với ý nghĩa này, người Việt cổ còn có tập quán cài cúc áo bên trái (người Trung Hoa gọi
lối mặc cài khuy bên trái của ta là tả nhậm); về sau ở đàn ông, lối mặc này đã bị thay
bằng lối mặc cài khuy bên phải của Trung Hoa.
Dịp hội hè, phụ nữ xưa hay mặc áo lối mớ ba, mớ bảy, tức là mặc nhiều áo cánh
lồng vào nhau. Tuy nhiên, với phong cách tế nhị, kín đáo truyền thống, người phụ nữ Việt
mặc cái áo dài màu thâm hoặc nâu phía bên ngoài lấp ló bên trong mới là các lớp áo
cánh nhiều màu (vàng mỡ gà' vàng chanh, hồng cánh sen, hồng đào, xanh hồ thủy....).
Ở Nam Bộ. nơi khí hậu nóng quanh năm, "áo mớ" dược thay bằng áo cặp (2 cái.).
Về mặt màu sắc. màu ưa thích truyền thống của người miền Bắc là màu nâu gụ
- màu của đất; màu ưa thích của người Nam Bộ là màu đen - màu của bùn; người xứ Huế
thì ưa màu tím trang nhã. Mấy chục năm gần đây, do ảnh hưởng của phương Tây, màu
sắc trang phục đã trở nên hết sức đa dạng. Tuy nhiên, trong quan niệm nhân dân thì
màu hồng, màu đỏ vẫn là màu của sự may mắn, tốt đẹp, màu "đại cát". Ở nông thôn
hiện nay, khi làm lễ cưới trước bàn thờ gia tiên, chú rể có thể mặc âu phục (nam giới
dương tính hướng ngoại), còn cô dâu thường vẫn mặc áo dài màu đỏ hoặc hồng chứ
không mặc màu trắng là màu mà truyền thống Việt Nam.
Do ảnh hưởng sự giao lưu với phương Tây, từ những năm 30 của thế kỉ này,
chiếc áo dài cổ truyền được cải tiến dần thành chiếc áo dài tân thời. Khởi đầu từ những
sáng kiến của hai họa sĩ Lê Phổ và Cát Tường, với sự sàng lọc, bổ sung, sửa đổi của
người sử dụng, chiếc áo dài tân thời đã trở thành một sản phẩm sáng tạo tập thể, nó kết
hợp được một cách xuất sắc truyền thống dân tộc với ảnh hưởng Tây phương: bên cạnh
những cải tiến đáng kể theo hướng tăng cường phô trương cái đẹp cơ thể một cách trực
tiếp kiểu Tây phương (dương tính hóa) (như đa dạng hóa về màu sắc; áo được thu gọn
cho ôm sát thân làm nổi ngực, bó eo hơn; bỏ áo cánh, áo lót và xẻ tà áo hai bên sườn
cao hơn cho hở lườn,... ) thì áo dài tân thời lại cũng đồng thời kế tục và phát triển cao độ
phong cách tế nhị, kín đáo cổ truyền (âm tính hóa): trong khi áo tứ thân cổ truyền buông
hai vạt trước bay phấp phới thì áo dài tân thời ghép hai thân trước thành một vạt dài kín
- đáo hơn; trong khi áo tứ thân cổ truyền để hở ngực yếm, hở cổ thì kiểu áo dài tân thời
dược ưa chuộng nhất là kiểu có cổ nhỏ cao... Nhờ vậy, chiếc áo dài tân thời khiến cho
người phụ nữ mặc nó nhìn chung và nhìn từ phía trước hết sức kín đáo đoan trang mà
vẫn không kém phần quyến rũ. Còn nếu nhìn nghiêng từ bên hông thì càng thấy sức
quyến rũ tăng lên gấp bội phần. Chính sự khêu gợi một cách tế nhị kín đáo, tính cách
dương ở trong âm đặc biệt này vừa đáp ứng được yêu cầu của thời đại, lại vừa duy trì
được bản sắc dân tộc, khiến cho chỉ trong một thời gian ngắn, chiếc áo dài tân thời đã
được phổ biến rộng rãi với các phong cách địa phương Hà Nội, Sài Gòn, Huế và trở thành
biểu tượng cho y phục truyền thống Việt Nam.
Đàn ông vào dịp hội hè cũng mặc áo dài, thường là áo the đen. Giới thượng lưu
thì mặc áo dài cả trong sinh hoạt thường ngày.
>>Đồ đội đầu, đồ trang sức
Bên cạnh hai bộ phận cơ bản là đồ mặc trên và dưới
(quần áo sống áo), trang phục Việt Nam còn có những bộ phận
khác không kém điển hình như thắt hông, đồ đội đầu, đồ trang
sức. Thắt lưng (thường làm bằng vải) là bộ phận phụ với mục
đích ban đầu phục vụ cả nam lẫn nữ là giữ cho đồ mặc dưới khỏi
tuột (với mục đích này, thắt lưng có thể bằng một sợi dây, gọi là
dải rút), rồi phát sinh thêm mục đích giữ áo dài cho gọn. Và mục
đích thứ ba là tôn tạo cái đẹp cơ thể của phụ nữ. Các bà các chị
còn dùng thêm thắt lưng bao (còn gọi là ruột tượng) để kiêm
nhiệm mục đích thứ tư là làm túi dựng đỗ vặt (tiền, trầu cau....).
Khi lao động đồng áng, người Việt Nam thường di chân
đất, khi hội hè hoặc ở thành thị. thì đi dép (theo chất liệu có dép
da, dép dừa, dép cói, dép cao su,...), đi guốc (làm bằng gỗ), đi
hài (đối với phụ nữ), đi giày (đối với nam giới). Trên đầu thường
đội khăn. Phụ nữ trước đây để tóc dài và vấn tóc bằng một mảnh
vải dài cuộn lại dể trên đầu (gọi là cái vấn tóc), đuôi tóc để chứa
ra một ít gọi là tóc đuôi gà : “ Một thương tóc để đuôi gà. Hai
Ảnh minh họa
thương ăn nói mặn mà có duyên”. Nguyễn Nhược Pháp trong bài
thơ Chùa Hương đã miêu tả rất chính xác trang phục của có gái quê : “Khăn nhỏ, đuôi gà
cao- Em đeo giải yêm đào- Quần lĩnh, áo the mới - Tay em cầm chiếc nón quai thao..”
Có thể phủ ra ngoài cái vấn tóc là cái khăn vuông, chít hình mỏ quạ vào mùa
lạnh (có mỏ nhọn phía trước. hai đầu buộc dưới cằm) hoặc hình đồng tiền vào mùa nóng
(như khăn mỏ quạ, nhưng hai đầu buộc ra sau). Đàn ông trước đây để tóc dài búi lại
thành một búi tròn trên đầu gọi là búi tó, búi củ hành. Khi làm lụng, người đàn ông vấn
khăn đầu rìu, lúc sang trọng thì đội khăn xếp. Người Nam Bộ thường đội khăn rằn .
Trên khăn hoặc thay cho khăn là nón để che mưa nắng. Nón thường có khung
tre và lợp lá gồi. Nón chóp nhọn đầu; nón thúng rộng vành; nón ba tầm như nón thúng
nhưng mảnh dẻ hơn - các loại nón này đều phải có quai để giữ, nón quai thao (làm bầng
vải thao) là loại phổ biến hơn cả. Huế nổi tiếng với nón bài thơ - một loại nón mỏng giơ
lên ánh sáng nhìn thấy những hình trang trí bên trong (xưa có bài thơ). Mũ là loại đồ đội
đầu ôm sát và kín tóc (miền Nam gọi chung cả mũ nón là "nón"). Vua xưa đội mũ miện;
quan văn xưa đội mũ cánh chuồn (có hai. cánh hai bên); tướng ra trận đội mũ trụ (bằng
chất liệu cứng để chống binh khí); sư sãi và người già đội mũ ni (có diềm che kín tai và
gáy, bởi vậy mới có thành ngữ "mũ ni che tai"); trẻ con đội mũ thóp (để bảo vệ thóp thở
ở đỉnh đầu); sau này còn có mũ lưỡi trai, mũ ca-lô, mũ cát.
- Về cách trang sức thì từ thời Hùng Vương, người Việt Nam đã rất thích đeo vòng
- vòng tai. Vòng cổ, vòng tay, vòng chân (vòng tai có thể nặng làm trễ dái tai xuống, dẫn
đến tục căng tai ở một số dân tộc miền núi). Lối tư duy tổng hợp truyền thống luôn là
nguồn gốc của một nếp sống thiết thực : khi ăn thì kết hợp để chữa bệnh. ngay cả khi
làm đẹp. Người Việt Nam cũng luôn kết hợp sao cho cái đẹp đó có ích cho cuộc sống, cho
sức khỏe. Thời Hùng Vương có tục xăm mình theo hình cá sấu để nó khỏi làm hại (tục
này đến tận thời Trần vẫn được duy trì). Tục nhuộm răng đen có tác dụng vừa để bảo vệ
răng vừa để trang điểm (ca dao có câu : Răng đen ai nhuộm cho mình - Để duyên mình
đẹp, để tình anh say). Tục ăn trầu để đỏ môi và để trừ sơn lam chướng khí, cũng rất phổ
biến là tục nhuộm móng tay, móng chân bằng thảo mộc (lá móng) để trừ tà ma và để
làm đẹp. Như vậy, trong việc trang phục, người Việt Nam đã có cách ứng xử rất linh hoạt
đặng đối phó với khí hậu nhiệt đới nóng bức và công việc nhà nông làm ruộng nước. Cách
may mặc, cùng với chức năng đối phó với môi trường tự nhiên, còn luôn hướng tới mục
đích làm đẹp cho con người; nhưng đó luôn là một cái đẹp tế nhị, kín đáo.
(Cinet)
Trang phục thời Hùng Vương
Cách đây khoảng 4.000 năm vào thời đại đồng thau phát triển, nước Việt Nam
thời đó gọi là nước Văn Lang. Người dân ở đây đã sinh sống bằng săn bắn, hái lượm và
trồng trọt. Họ không dùng vỏ cây làm áo nữa mà đã biết trồng gai, đay, nuôi tằm, ươm
tơ, dệt vải. Vào thời kỳ này đồ đồng rất phong phú. Trống đồng và nhiều tượng phù điêu
bằng đồng có khắc họa những cảnh sinh hoạt thời đó với những hình người, với các loại
trang phục khá rõ nét và được thể hiện bằng phong cách nghệ thuật biến hình, cách điệu
cao. Qua đó, ít nhiều đã cho thấy trang phục của người thời đó khá phong phú như phụ
nữ mặc áo ngắn đến bụng, xẻ ngực, bó sát vào người, phía trong mặc yếm kín ngực,
chiếc yếm cổ tròn sát
cổ, có trang trí những hình tấm hạt gạo. Cũng có
những loại áo cánh ngắn, cổ vuông, để hở một phần vai và
ngực hoặc kín ngực, hở một phần vai và trên lưng. Hai loại
sau có thể là loại mặc chui đầu hay cài khuy bên trái. Trên
áo đều có hoa văn trang trí. Thắt lưng có ba hàng chấm
trang trí cách đều nhau quấn ngang bụng.
Qua những hiện vật khảo cổ đã tìm được cho
thấy trang phục của đàn bà và đàn ông như sau:
- Đàn bà mặc váy (váy kín "váy chui" và váy mở
"váy ngắn").
- Đàn ông thường đóng khố và cởi trần.
Do điều kiện khí hậu và sinh sống, người dân
thường lên rừng săn bắn, hái lượm hay xuống biển bơi lặn đánh cá, hoặc làm ruộng nước
vất vả nên đầu tóc phải gọn gàng. Vì vậy, đàn ông và đàn bà phải cắt tóc ngắn đến
ngang vai hoặc một số ít cắt ngắn đến chân tóc. Về trang phục của chiến binh thì gồm
- mảnh giáp hình chữ nhật dùng để che ngực có 4 quai đeo. Đai lưng bằng đồng có khóa to
bản, được hình thành bởi nhiều các móc được liên kết với nhau. Trên bề mặt mỗi miếng
đều có họa tiết hình rùa hay chim. Các loại bao ống tay, bao ống chân bằng đồng có thể
được dùng trong các điệu múa ngày lễ, ngày hội (xem ảnh). Về hình thức trang sức và
trang điểm của người Việt cổ thì nam nữ đều xâu lỗ tai và đeo đồ trang sức. Các loại
vòng tai phổ biến của hai giới là hình tròn, hình vành khăn, hình khối đặc biệt là loại vòng
hoa tai gắn quả nhạc hay đôi hoa tai bằng đá, hình con thú. Những chuỗi hạt thường
thấy gồm các loại hạt hình trụ, trái xoan, hình cầu. Còn vòng tay với nhiều hình khác
nhau như: tròn, vuông, chữ nhật, lòng máng, sóng trâu... có trang trí hoa văn hình lông
chim hay bông lúa.
Ngoài ra còn nhiều nhẫn bằng đồng đeo ở ngón tay
cũng gắn quả nhạc dài xinh xắn. Tuy đồ trang sức còn thô sơ,
nhưng với điều kiện chế tác hạn chế ta thấy con người thời đó
đã có trình độ thẩm mỹ và óc tưởng tượng cao, đã quan tâm
đến vấn đề làm đẹp cho thân thể, đồng thời thể hiện bàn tay
khéo léo, cần cù lao động. Đàn ông thường vẽ lên mình những
hình ngoằn ngoèo, hình móc câu, đó là tục xâm mình phổ
biến. Đàn ông và đàn bà đều nhuộm răng đen và có tục ăn
trầu.
Nghiên cứu các kiểu trang phục, trang sức,
trang điểm thời Hùng Vương, ta tìm hiểu được khía cạnh về đời sống, mối quan hệ xã hội
thời đó. Mặt khác, ta còn chắt lọc ra những yếu tố thẩm mỹ làm tôn vẻ đẹp con người
gắn bó với thiên nhiên, hài hòa với đất nước non trẻ, với xã hội vào thời kỳ đầu dựng
xây.
Trang phục các thời phong kiến
Vài nét về trang phục thời Ngô - Đinh - Tiền Lê
Vào nửa sau thế kỷ III trước Công Nguyên, Thục Phán, một thủ lĩnh người Âu
Việt từ miền trên đã tràn xuống đánh chiếm nước Văn Lang, thống nhất hai lãnh thổ,
dựng nên nước Âu Lạc, dời đô từ miền núi xuống đồng bằng. Thời kỳ này đồ sắt phát
triển. Trong thời kỳ đất nước Âu Lạc bị Triệu Đà xâm lược, cai trị, cộng với ba lần bị
phong kiến phương Bắc thống trị hơn một ngàn năm (207 trước công nguyên - 939),
nhân dân ta một mặt đấu tranh với kẻ thống trị, nhưng một mặt vẫn tích cực phát triển
sản xuất. Nghề dệt đã có những phát triển quan trọng. Nghề trồng dâu nuôi tằm đã phổ
biến và còn sản xuất được các loại vải bông thô, vải đay, vải gai, vải cát bá loại mịn,
lụa... Đã biết dùng tơ tre, tơ chuối dệt thành vải. Vải dệt từ tơ chuối có tên gọi là vải Giao
Chỉ. Khăn bông được thêu thùa rất đẹp gọi là bạch diệp. Ngoài ra, còn làm nhiều đồ trang
sức bằng vàng, bạc (vòng tay, nhẫn, hoa tai, trâm), bằng ngọc (vòng, nhẫn), bằng hổ
phách, bằng thủy tinh (chuỗi hạt). Đã từng phải cống cho triều đình phương Bắc loại mũ
"đầu mâu" hoàn toàn bằng bạc (khảo cổ học đã phát hiện được nhiều kiểu khóa thắt
lưng, chứng tỏ tục mang tai rất phổ biến).
Đến triều đại nhà Đinh (968 - 980), về trang phục, sử sách đời sau chỉ nhắc đến
một số rất ít hiện tượng như (năm 974) quân lính "đều đội mũ chỏm", bằng, bốn bên
hình vuông (Mũ làm bằng da, bốn cạnh khít lại, trên hẹp dưới rộng), gọi là mũ "tứ
- phương bình đỉnh". Hoặc "Năm Thái Bình thứ sáu (975) Đinh Tiên Hoàng định phẩm phục
của các quan văn võ". Hoặc (năm 980) ở một bức thư của nhà Tống gửi cho triều đình ta
có nói tới việc nhân dân ta thời đó đều cắt tóc ngắn. Hoặc có nhắc đến mũ của các đạo sĩ
là màu vàng, áo của các nhà sư là màu thâm, các quan được dùng ấn vàng thì thắt lưng
dải tím, được dùng ấn bạc thì thắt dải xanh.
Sang thời (tiền) Lê (981 - 1009), ta thấy: Vua Lê Đại Hành lên ngôi mặc áo long
cổn, về sau áo mặc thường dùng vóc đỏ, mũ trang sức trân châu.
Lê Ngọa Triều, (1006) đổi lại phẩm phục cho các quan văn võ và tăng đạo, theo
đúng như nhà Tống.
Như vậy là suốt thời gian dài này, tư liệu và hiện vật về trang phục để lại rất
hiếm. Kể cả về sau, những tài liệu thành văn cũng chỉ chủ yếu nói về trang phục trong
Triều Đình (nhắc đến tên mũ, tên áo, màu sắc... chứ không miêu tả tỉ mỉ, cặn kẽ). Một số
hiện vật bằng gỗ, đá để lại nói chung hình nét không được rõ lắm.
Dù sao trong vài chục năm trị vì, các vua Đinh, Lê cũng đã giành sự quan tâm
đến lĩnh vực trang phục, đặc biệt là mũ áo Triều Đình. Nhìn chung, ít nhiều thấy có sự kế
thừa hoặc sáng tạo về hình loại, kiểu cách, màu sắc nhưng đáng trách hơn cả là sự sao
chép một cách nô lệ, lười biếng của vua Lê Ngọa Triều tạo một tiền đề lai căng cho những
kiểu mẫu trang phục về sau.
Tuy nhiên, trong những thời kỳ chế độ phong kiến ổn định, thì càng về sau,
trang phục cũng đã dần dần được qui định cho từng thành phần trong xã hội (vua, quan,
dân...) cho mọi nghi thức trong cuộc sống (cưới, tang, lễ, hội...). Căn cứ trên hình thức,
màu sắc, họa tiết... trong trang phục, ở từng giai đoạn, sự phân biệt mang tính chất giai
cấp đã được hình thành rõ rệt.
Trang phục thời Lý
a.Trang phục triều đình
Triều đại nhà Lý (1009 - 1225), kinh đô từ Hoa Lư
dời về thành Đại La và gọi là Thăng Long. Năm 1054, đặt
tên nước là Đại Việt. Năm 1029, vua Lý Thái Tông định quy
chế mũ áo của các công hầu và các quan văn võ. Nhưng
chắc việc quy định này còn chưa chặt chẽ kể cả về hình
thức trang phục và cách thức sử dụng. (Theo tư liệu để lại,
các quan triều Lý một thời gian vẫn đeo cái túi có hình cá
bằng lụa đỏ và bằng vàng, ít nhiều còn ảnh hưởng lối trang
sức của nhà Tống).
Năm 1040, nhà vua chủ trương dùng gấm vóc
trong nước để may lễ phục mà không dùng gấm vóc của
nhà Tống nữa. Số gấm vóc của nhà Tống còn lại trong kho
thì phát hết ra may áo cho các quan, từ ngũ phẩm trở lên:
áo bào bằng gấm, từ cửu phẩm trở lên, áo bào bằng vóc. Điều này biểu thị chí tự cường,
tự lập của dân tộc đã khá cao.
Năm 1059, vua Lý Thánh Tông định triều phục cho các quan. Vào chầu vua, các
quan phải đi tất, đi hia và đội mũ phác đầu. (Mũ này có 4 góc, 4 tai, sau làm 2 tai ngang,
- tức mũ cánh chuồn, có thể là kiểu mũ từ thời Đinh, sau thêm tai), mặc áo bào tía, cầm
hốt ngà, thắt đai da. Lệ đội mũ phác đầu, đi hia bắt đầu có từ thời này.
Qua võ phục thời Lý, ta bắt gặp những dạng hoa văn, những hình xoắn, hình
móc... thường thấy trong lĩnh vực trang trí, hội họa thời đó. Những biểu tượng cho thiên
nhiên, cuộc sống được khắc lại trên trang phục của những nhân vật tượng trưng cho sức
mạnh là một đặc điểm hài hòa rất có ý nghĩa. Các vũ nữ, tóc thường búi cao lên đỉnh
đầu, trên trán có một điểm trang trí, mái tóc điểm những bông hoa, tay đeo vòng, cổ đeo
những chuỗi hạt, mặc váy ngắn có nhiều nếp.
Trang phục của nhạc công cũng khá độc đáo. Mũ chùm kín tóc, phía trên mũ
được làm cao lên và trang trí các diềm uốn lượn. áo cánh trong: tay dài và chít ở cổ tay.
Bên ngoài là một chiếc áo, cộc tay. Quanh cổ áo có chiếc vân kiên (như chiếc yếm dài)
chùm cả một phần ngực, lưng và vai. Quanh bụng đeo những miếng diềm vải rộng có
trang trí nhiều đường thêu đẹp. Bụng chân quấn xà cạp và chân đi giày vải mũi
nhọn.Thời gian này vẫn còn tục xăm mình. Từ vua đến quân sĩ ai cũng xăm mình. Quân
cấm vệ xăm vào ngực và chân những dấu hiệu riêng và được phép xăm hình rồng lên
người.
b. Trang phục nhân dân
Thời Lý có lệnh cấm người dân mặc áo màu vàng (1182), con gái dân gian
không được bắt chước kiểu búi tóc như cung nhân.
Những pho tượng tròn hoặc tượng đắp nổi bằng đá của thời Lý còn lại cũng
chứng minh quần áo thời đó đã được may theo quy cách, bằng nhiều loại vải tốt và mịn.
Ở thời Lý, đàn bà thường đeo khuyên bạc, vũ nữ thường búi tóc cao và buộc diềm hoa
trên đầu gợi lại hình ảnh trang điểm ở tượng người phụ nữ trên cán dao găm, trên chuôi
kiếm ngắn từ thời Hùng Vương, hoặc các võ tướng còn đính nhiều quả nhạc trên áo giáp
biểu hiện ý thức "nhớ nguồn", chứng minh tinh thần tiếp nối và phát huy truyền thống.
Cùng với những hoa văn, họa tiết trang trí trên trang phục, những hoa văn, họa
tiết thời Lý ở các hiện vật khác không chỉ là yếu tố trang trí nghệ thuật mà còn có nhiều
ý nghĩa tượng trưng, như những hình dạng xoắn ốc đôi, chính là ký hiệu mây mưa mà
ông cha ta vẫn cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, như hình tượng con
rồng thời Lý là "rồng rắn" một đồ án trang trí đẹp và độc đáo, tượng trưng cho nguồn gốc
lịch sử dân tộc, vòng uốn lượn mềm mại của thân rồng tượng trưng cho nguồn nước và
mây mưa, là niềm mơ ước của cư dân lúa nước.
Nghiên cứu trang phục và hoa văn, họa tiết thời Lý như trên, ta thấy một ý nghĩa đặc
biệt là nó đã phản ánh được mối tương quan thống nhất trong đời sống kinh tế, quân sự,
văn hóa... của xã hội thời đó khá rõ nét.
(Cinet - Tổng hợp)
Trang phục thời Trần
Triều Lý suy vong, triều Trần nối tiếp (1225 - 1400). Đất nước Đại Việt thời
Trần, với ý chí sắt đá tự lập tự cường của triều đình và của toàn dân, xây dựng trên nền
tảng truyền thống dân tộc, trên những chiến công ba lần chống xâm lược Nguyên -
Mông, đã phát triển mạnh mẽ nhiều mặt. Về nghề dệt, thời gian này nhân dân ta đã có
nhiều loại vải bông, vải gai, lụa, lĩnh, sa, the, nái, sồi, đoạn, gấm, vóc... Nghề thêu cũng
phát triển.
- a. Trang phục triều đình
Năm Hưng Long thứ 8 (1300), quan võ dùng kiểu mũ áo mới. Quan văn đội mũ
chữ đinh màu đen. Tụng quan đội mũ toàn hoa (mũ hoa thủng có hai vòng vàng đính ở
hai bên) màu xanh như kiểu cũ. Cửa tay áo các quan văn, võ rộng từ 9 tấc đến 1 thước 2
tấc, kiểu hẹp từ 8 tấc trở xuống thì không được dùng. Các quan văn võ không được mặc
xiêm. Tụng quan không được mặc thường.
Sau đó (1301) lại cho phép các quan đội mũ chữ đinh, thêm miếng lụa bọc tóc
màu tía pha màu biếc (bịt lên đầu dùng để buộc chân tóc lại, bỏ thừa về đằng sau).
Vương hầu nào tóc dài thì đội mũ triều thiên, người nào tóc ngắn thì đội bao cân
(1303). Có lẽ đây là loại khăn chùm đầu màu xanh thẫm mà Trần Phu đã nhắc đến trong
bài An Nam tức sự (1294).
Đến năm 1395, Lịch Triều tạp kỷ lại quy định mũ áo của các quan văn, võ. Nhất phẩm thì
màu tía, nhị phẩm: màu đại hồng, tam phẩm: màu đào hồng, tứ phẩm, ngũ phẩm: màu
lục, thất phẩm: màu biếc, bát, cửu phẩm: màu xanh. Người không có phẩm hàm và nô
bộc: màu trắng. Người hầu trong cung thì mặc váy mở, không dùng xiêm.
Các quan theo hầu, chức văn từ lục phẩm trở lên được đội mũ cao sơn (chánh
lục phẩm: mũ màu đen, tòng lục phẩm: màu xanh). Chánh lục phẩm được mang đai, đi
hia. Người tôn thất đội mũ phương thắng màu đen. Chức võ, lục phẩm đội mũ chiết xung,
tước cao màu không có
chức được mang đai và đội mũ giác đính, thất phẩm đội mũ thái cổ, tòng thất
phẩm đội mũ toàn hoa. Vương hầu đội mũ viên du. Ngự sử đài đội mũ khước phi. Nhà
vua búi tóc, dùng theo bọc và buộc lại, trông như khăn nhà đạo sĩ, chỉ rộng hơn một ít,
còn tóc ở hai bên thì vẫn để lộ ra và xõa xuống. Các quan được mặc áo bào và cầm hốt.
Có những trường hợp đi chân đất.
b. Trang phục nhân dân
Triều đình thời Trần mấy lần quy định chế độ mũ áo cho các quan văn, quan võ,
còn đối với nhân dân không thấy nêu những điều lệ cụ thể. Duy chỉ được biết là trong
nhân dân, trừ phụ nữ không bị cấm, còn không ai được mặc màu trắng. Ai mặc màu
trắng là phạm pháp. Có thể đây là để giành riêng màu trắng cho những người tôi tớ trong
cung, tránh sự lẫn lộn trong xã hội? Các màu xanh, đỏ, vàng, tía, cũng không dùng.
Đàn bà thường mặc áo tứ thân màu đen, trong
lót vải trắng để may viền vào cổ áo, rộng khoảng 13cm,
cắt tóc để lại chừng 10cm rồi buộc túm lên đỉnh đầu, xong
uốn cong đuôi tóc và buộc lại lần nữa hình giống như cây
bút, không để tóc mai, không búi tóc phía sau đầu, không
đeo vòng khuyên. Những người giàu thì cài trâm đồi mồi,
còn thì cài trâm bằng xương hoặc sừng, không dùng phấn
sáp hay xoa dầu.
Đàn ông thường cởi trần hoặc mặc áo tứ thân
màu đen, cổ áo tròn bằng the, quần mỏng bằng lụa thâm.
Đại đa số cạo trọc đầu (kể cả trẻ em). Có người chùm đầu
bằng khăn lụa. Ngày thường ở nhà, chỉ để đầu trần, khi
tiếp khách mới đội chăn, khi ra đường mang khăn theo,
đều đi đất, cũng có người đi giầy da, nhưng khi vào cung vua thì cởi ra. Trong nhân dân
vẫn phổ biến tục nhuộm răng đen và ăn trầu.Tục xăm mình thời Trần rất phổ biến, đạt
đến trình độ nghệ thuật, và đã có thợ chuyên vẽ hình.
- Trong khi quân đội thời Trần đều thích lên cánh tay hai chữ "Sát Thát", thì nhân
dân Đại Việt, nhiều người, dù là người đã có con cháu, cũng xăm lên bụng những chữ
"Nghĩa dĩ quyên khu, hình vu báo quốc" thể hiện tinh thần vì việc nghĩa liều thân, báo
đền ơn nước. Xăm mình, thích chữ vừa là truyền thống, vừa là thi hành lời thề thiêng
liêng, vừa thể hiện một tinh thần thượng võ. Đồng thời, đó cũng là một hình thức trang
điểm trên thân thể phản ánh quan niệm về cái đẹp của người đương thời.
Nhìn nhận chung, trang phục thời Trần có những sắc thái đặc biệt, nó không
tách rời ảnh hưởng của một nguyên lý thẩm mỹ xuất phát từ tinh thần thượng võ Đông
A, bắt nguồn từ truyền thống dựng nước, giữ nước oanh liệt của dân tộc. Trong vòng 30
năm ba lần so gươm, đọ dáo với một kẻ thù khét tiếng hung hãn đang "làm cỏ" nhiều
nước trên thế giới, quân dân Đại Việt, với lòng yêu nước nồng nàn, với sức mạnh đoàn
kết chặt chẽ, với trí thông minh sáng tạo, đã phải thường xuyên cảnh giác, thường xuyên
rèn luyện, liên tục chiến đấu ngoan cường và đã giành được thắng lợi huy hoàng. Thực tế
khách quan ấy không cho phép một sự cầu kỳ, phức tạp, tản mạn... trên mọi hình thái
đời sống xã hội thời ấy, trong đó có phần trang phục, trang sức. (Ví dụ như phụ nữ không
trang điểm diêm dúa cho tới về sau khá lâu, vua quan đều ăn mặc giản dị...).
(Cinet -Tổng hợp)
Trang phục Triều Nguyễn
Triều Nguyễn (1802 - 1945), vương triều cuối cùng
của giai cấp phong kiến nước ta, càng về sau càng phản động
với bộ máy thống trị lạc hậu, hoàn toàn phụ thuộc vào sự chỉ
huy của thực dân Pháp.
Đầu thời Nguyễn, trang phục của vua quan cũng
được quy định tỉ mỉ như ở những triều đại phong kiến trước và
có một cơ quan chuyên trách: Bộ lễ, song nó đã không mang
được sắc thái riêng của dân tộc. Sự pha tạp những yếu tố
Đông Tây, Âu Á trong hình dáng và họa tiết, nhằm mục đích
phô trương hình thức, thể hiện uy quyền của đẳng cấp thống
trị, cho nên không thể nào tránh được sự lố bịch, lai căng.
Vua Gia Long lên ngôi năm 1802. Trang phục của
vua, có mũ miện, áo long cổn, xiêm, đai, hia, hốt...
- Mũ miện, thân mũ hình tròn ống, đan bằng dây thau, rộng
hẹp tùy cỡ đầu, mặt ngoài bọc lụa màu huyền, trong lót lụa Y phục Triều
màu đỏ. Đặt lên trên thân mũ là một ván gỗ mỏng hình chữ Nguyễn
nhật, cạnh trước và cạnh sau đeo 24 dây tua bằng vàng, xâu 300 hột san hô, trân châu,
pha lê và 400 hạt vàng. Đỉnh mũ đính hai chữ vạn thọ bằng vàng. Xung quanh thân mũ
có 12 hình rồng vàng, 6 hình ngọn lửa cũng bằng vàng. Lại dát hình hoa sen và đám mây
bằng 256 hột vàng. Khi đội mũ, dùng một khăn chít ở trán để đội cho chặt (võng cân).
Khăn dệt bằng tơ vàng.
- - Áo long cổn bằng sa tanh màu thanh
thiên, cổ tròn bằng đoạn bát ty màu quan lục,
trong lót lụa trắng. Thân áo thêu nhiều họa tiết:
mặt trời, mặt trăng, sao, núi, rồng v.v... Vạt áo
thêu rồng, mây, hình sóng nước... Tay áo cũng có
họa tiết hình hai con rồng quay đầu xuống. Bên
trong mặc áo đơn màu bạch tuyết, cửa tay thêu
hình rồng mây.
- Xiêm bằng sa màu vàng bóng, dưới viền
Y phục Triều Nguyễn gấm, thêu các họa tiết: ngọn lửa, hạt gạo, hình
phất, hình phủ... lại còn đính các thứ ngọc bội,
khánh ngọc, ngọc huỳnh, hạt vân mẫu, san hô, hổ phách... Khi đi lại, các thứ đó va chạm
vào nhau, phát ra âm thanh rủng rẻng.
Đai làm bằng da bọc đoạn màu vàng, giữa đính một miếng ngọc hình vuông,
xung quanh gắn sáu viên ngọc trắng hình quả trám, bịt vàng, 392 hạt châu ngọc, bên
trong có sáu khuy để đính vào áo.
Hia, ngoài bọc đoạn màu đen, trong lót đoạn màu đỏ. Xung quanh thêu hình
rồng, mây, đính ngọc, kim cương và những miếng kính cùng nhiều thứ khác. Hốt (cầm
tay) của vua bằng ngọc, dài một thước hai tấc (khoảng 40cm), ngang ba tấc (khoảng
10cm), có túi gấm đựng.
Năm 1806, vua Gia Long ban chiếu quy định phẩm phục đại triều và thường triều cho các
hàng văn võ, tóm lược như sau:
* Phẩm phục đại triều Văn giai:
Các quan từ trên nhất phẩm đến
chánh thất phẩm, tùng thất phẩm đều đội
mũ cánh chuồn tròn, nhưng tùy cấp bậc
thấp, cao mà được đính ít hay nhiều vàng,
bạc, đá quý... ởtrên mũ.
áo, mãng, bào cổ tròn. Chức cao nhất thì
màu tía rồi đến hàng thấp: màu lục, lam,
xanh...Đai, thân màu đỏ, trang sức vàng,
ngọc, bạc, đồi. Hia, màu đen, mũi vuông.
Tất viền gấm.
* Phẩm phục thường triều Văn Áo hoàng hậu - Triều Nguyễn
giai:
Từ trên nhất phẩm đến chánh tam phẩm, tùng tam phẩm: đội mũ văn công,
trang sức bằng vàng có hai dải đính ngọc kim hoa. áo bằng sa đoạn, màu xanh, lục, lam,
đen v.v... hoặc thêu hoa, cổ chéo, màu trắng. Xiêm thêu chim hạc, xen hoa màu đỏ. Hia,
tất giống như phẩm phục đại triều Văn giai.
Từ chánh tứ phẩm, tùng tứ phẩm đến chánh, tùng lục phẩm (tán giai): đội mũ
kiểu Đông pha. áo bằng sa đoạn, màu xanh, lam, lục... Bố tử nền đỏ, thêu chim công,
(cháng, tùng tứ phẩm), thêu vân nhạn (chánh, tùng ngũ phẩm), thêu ngỗng trắng
(chánh, tùng lục phẩm).
Chánh thất phẩm, tùng thất phẩm đến chánh cửu phẩm, tùng cửu phẩm (tán
giai): đội mũ văn tú tài. áo: kiểu may, màu sắc và hia tất giống cấp bậc trên. Bố tử, bậc
- chánh: nền đỏ, bậc tùng: nền xanh, thêu hình chim cò. Xiêm màu xanh, lục tùy ý nhưng
hai bên không thêu hoa chùm.
Ở thời nhà Nguyễn, càng về sau trang phục của giai cấp phong kiến, đặc biệt là
ở tầng lớp trên, càng biểu hiện một sự lố lăng, pha tạp, nhằng nhịt đến rối mắt.
Ví dụ như hình ảnh
một ông vua: Vua Khải Định
mặt áo dài đến đầu gối, cổ
đứng cao. áo mở giữa nhưng
bó lấy người bằng một thắt
lưng to bản và một dải vải vắt
chéo thân người. áo thêu rồng,
mây, sóng nước rối rắm. Cổ
tay chẽn lại bằng miếng đáp
như "măng-xét" áo sơ mi. Hai
vai đeo ngù. Đầu đội nón
chóp. Chân đi giầy da đen
bóng và ống chân được bó lại
như kiểu đi "ghệt" nhưng lại
thêu rồng. Trên nón, trên áo,
trên thắt lưng... đều có đính
rất nhiều vàng ngọc. Ngực đeo
thẻ bài, khánh... bên cạnh các
loại "mề đay" to nhỏ. Có cái
"mề đay" đeo xuống tận đùi.
Đeo kiếm Tây nhưng vỏ kiếm
lại chạm các hình hoa lá
phương Đông...
Về trang phục của
binh lính thời đó, ta thấy: lính
trong triều thường mặc áo thân
dài. Loại quan ở cấp bậc trên,
áo được may bằng vải tốt, có
họa tiết hay trơn. áo có nẹp
khác màu ở vòng quanh tai,
mép tà, gấu áo, cửa tay. Lính
hầu vua quan mặc áo cài cúc
giữa, có nẹp hai bên tà từ ngực
đến suốt chiều dài của thân áo.
Thắt lưng vải buộc ngoài áo dài
nhân dân gọi là lính khố vàng,
vì vải màu trắng cháo lòng.
Mặc quần ta, dưới chân bó xà
cạp. Chân đi dép da trâu hoặc
đi đất. Đầu đội mũ hay khăn
theo phẩm trật. Lính hầu thì
Trang phục của Vua Khải Định
đội nón sơn nhỏ có chóp nhọn.
- Ngoài ra còn có lính khố xanh, khố đỏ. Gọi là lính khố xanh vì loại lính này thắt
lưng xanh. Gọi là lính khố đỏ vì loại lính này thắt lưng đỏ. Thắt lưng bằng vải, thắt phía
trong áo và buông xuống trước bụng một đoạn ngắn khoảng 20cm.
Nói chung lính đều mặc áo cánh ngắn, cổ đứng, cao, cài cúc giữa, tay áo hẹp, ở
gần cửa tay áo có đính phù hiệu chữ V bằng màu đỏ hay vàng hoặc kim tuyến để chỉ cấp
bậc là cai, đội hay quản v.v... Quần như quần nhân dân nhưng phía dưới bó xà cạp. áo
quần màu vàng cỏ úa. Đầu đội nón dấu nhỏ hay nón đĩa đan bằng tre quang dầu. Nón
đĩa rộng như cái mẹt con, đường kính khoảng 25cm, phía sau có đính vải để che gáy và
hai bên tai tránh nắng. Chân đi dép da trâu mỏng, có quai chéo chữ V và một quai
quàng.
Giai đoạn này, lính người Việt tham gia quân đội Pháp được trang phục theo
kiểu cách quân đội viễn chinh Pháp quy định.
Nhìn vào hệ thống trang phục của vua, quan nhà Nguyễn như trên, người ta đã
thấy được thực chất tham vọng của những con người mặc nó. Ví dụ như trên bề mặt nhỏ
hẹp của một chiếc áo lai căng, vua Nguyễn đã cho thêu vẽ đầy họa tiết rồng, mây, hoa,
lá, sóng nước, vàng bạc, châu báu... như muốn thu cả đất trời, của cải về mình. Cái nón
dân tộc giản dị, trang nhã được gắn đầy ngọc ngà, đối lập với đôi "ghệt" Tây phương,
trông thật là lố bịch. Còn trang phục các quan, hầu như là một sự sao chép trang phục
triều đình phương Bắc.
(Cinet - Tổng hợp)
Trang phục từ Cách mạng tháng Tám đến nay
Lịch sử đất nước có những thay đổi lớn lao: Cách mạng Tháng Tám (1945) thành
công rồi sau đó là cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp và chống Mỹ.
Vào thời kỳ này, trong nhân dân, người già như trẻ lại. Họ mặc những bộ quần
áo mới đi học, đi mít tinh. Lớp trẻ cảm thấy lớn lên, ghé vai đảm đương công tác cách
mạng. Nhiều người cất áo the, khăn đóng, mặc áo cánh hoặc sơ-mi gọn gàng hơn. Phụ
nữ nhà giàu bớt diêm dúa, đi theo chị em lao động làm việc công ích. Công nhân áo
trắng, quần yếm xanh, nông dân quần áo nâu mới. Đặc biệt, lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng
(nhất là các em ở thành thị), các em mặc đồng phục, tập trung hội họp, ca hát... bước
đầu làm xóa ranh giới giữa con "ông chủ", con "chị sen", con "ông đốc", con "anh thợ"
của những ngày hôm trước.
Áo dài truyền thống Việt Nam
Cũng không ngạc nhiên khi một người Việt Nam trả lời rằng tà áo Dài là một
trong những hình tượng tiêu biểu ở đất nước này. Thật khó mà dịch từ "áo Dài" sang bất
cứ ngôn ngữ nào vì không ở đâu có một tà áo Dài như ở Việt Nam.
Áo Dài, trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam, ôm sát cơ thể, có cổ cao
và dài khoảng ngang gối. Nó được xẻ ra ở hông. Áo Dài vừa quyến rũ lại vừa gợi cảm,
vừa kín đáo nhưng vẫn biểu lộ đường nét của một người thiếu nữ.
- Nhìn lại chiều dài lịch sử đất nước, tà áo Dài là một sáng tạo nghệ thuật mới. Nó
thay thế trang phục cổ truyền mà mầu sắc và kiểu dáng phải tuân theo những đòi hỏi lễ
nghi và những tầng lớp xã hội. Mầu vàng chỉ dành cho những ông vua và họ được mặc áo
Long bào. Mầu trắng là mầu tang còn mầu xanh dành cho các vị quan trong những dịp
trang trọng. Trước nữa, đầu thế kỷ 18, phụ nữ Việt Nam mặc váy dài. Vào năm 1744,
viên quan Vũ Vương cai trị phía Bắc miền Trung Việt Nam của triều Nguyễn yêu cầu thay
đổi trang phục Việt Nam trên cơ sở kiểu áo Trung Hoa. Bộ quần áo có nút thay thế cho
váy và áo xẻ ngực thắt dây. Vua Minh Mạng, vị vua thứ hai của triều Nguyễn ban hành
sắc lệnh cấm phụ nữ mặc váy.
Áo Dài được phát hiện từ thời Pháp thuộc khi một phụ nữ Việt Nam tên Tường
thay đổi chiếc áo tứ thân (áo dài có bốn mảnh) thành chiếc áo hai tà đầu tiên. Người
Pháp gọi chiếc áo dài đó là Le Mur có nghĩa là "the wall" trong Anh ngữ.
Từ đó, chiếc áo Dài đã được thay đổi khá sâu sắc. Hai kiểu áo Dài được ưa
chuộng là kiểu cổ tròn, tay raglar (tay liền) và kiểu tay puff (tay phồng). Ngoài ra, tà áo
được nối liền với phần thân qua những đường chỉ nối quanh cổ áo. Ngoài hai kiểu áo nêu
trên, nhiều kiểu áo khác như kiểu cổ thuyền, cổ vuông, cổ chữ V thích hợp với những
người tương đối đầy đặn, kiểu vai phồng cho những thiếu nữ mảnh mai. Chất liệu mới
cho áo Dài được kết hợp từ những tấm vải mẫu, thường được trang trí bằng những đường
nét thủ công hoặc thêu thùa.
Tà áo Dài không thể gia công hoặc bán hàng loạt như những loại quần áo may
sẵn khác. Mỗi mảnh được tạo ra là một công trình nghệ thuật của người thợ thủ công.
Những thợ may áo Dài thường phải từ chối đơn đặt hàng trước dịp năm mới. Đôi khi
người ta nhận làm chỉ 24 giờ với giá gấp đôi.
Bà James Sterson, một sứ giả Mỹ đã nói rằng: Không một đất nước nào có một
trang phục dân tộc vừa đẹp, truyền thống mà lại có chiều sâu văn hóa như tà áo Dài Việt
Nam.
Ngày nay, áo Dài xuất hiện khắp nơi trên thế giới. Những phụ nữ Việt Kiều biểu
lộ tình cảm với quê hương qua chiếc áo Dài. Nhiều du khách nước ngoài đã có những ấn
tượng rất tốt về tà áo Dài Việt Nam. Họ cảm thấy được tiếp đón rất nồng hậu khi những
tà áo Dài bay bay trước gió ở phi trường. Thật tiếc cho những ai đến Việt Nam mà không
mang về một chiếc áo Dài làm kỷ niệm và để khoe với những ai chưa từng đến Việt Nam.
Tà áo Dài xứng đáng với mệnh danh "Nét duyên dáng Việt Nam".
Văn hoá mặc của người đàn ông Việt