TIỂU LUẬN: PHƯƠNG PHÁP LUẬN PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỐI TÁC VÀ ĐỐI TƯỢNG TRONG NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG TA
Tham khảo luận văn - đề án 'tiểu luận: phương pháp luận phân tích mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng trong nhận thức của đảng ta', luận văn - báo cáo, báo cáo khoa học phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả... » Xem thêm
Tóm tắt nội dung tài liệu
- TIỂU LUẬN:
PHƯƠNG PHÁP LUẬN PHÂN TÍCH
MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỐI TÁC VÀ
ĐỐI TƯỢNG TRONG NHẬN THỨC
CỦA ĐẢNG TA
- Từ góc độ triết học, trong bài viết này, khi đề cập đến một vấn đề có ý nghĩa chính trị
trong quan hệ quốc tế – mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng, tác giả đã chỉ ra và luận
giải ý nghĩa phương pháp luận trong việc phân tích mối quan hệ này của Đảng ta. Nhận
thức rõ mối quan hệ này theo một nguyên tắc nhất quán – tôn trọng độc lập, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ, quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, Đảng ta luôn
xác định rõ các cấp độ bao quát về phạm vi đối tác và đối tượng, phân định rõ đối tác
và đối tượng, xác định rõ đối tác chiến lược, lâu dài. Đó là cách nhìn nhận mới, mang ý
nghĩa phương pháp luận của Đảng ta về mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng trong
bối cảnh quốc tế hiện thời.
Nhận thức về đối tác và đối tượng là vấn đề nhạy cảm và cực kỳ quan trọng
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sự cần
thiết phải thống nhất về nhận thức trong vấn đề này luôn là một đòi hỏi chính
đáng và hợp lý, trên cơ sở lợi ích chung của quốc gia, dân tộc. Vì thế, trong Văn
kiện Đại hội X, Đảng ta đã nhấn mạnh việc cần phải “chú trọng giáo dục thống
nhất nhận thức về đối tượng và đối tác; nắm vững đường lối, quan điểm, yêu cầu
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; nâng cao ý thức trách nhiệm và
tinh thần cảnh giác trong thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh”(1).
1. Thực ra, không phải đến Đại hội X, Đảng ta mới bàn đến vấn đề này. Dưới
các cách diễn đạt khác nhau, vấn đề bạn, thù, đối tác, đối tượng đã được Đảng
ta bàn đến trong Luận cương chánh trị đầu tiên (1930). Tuy nhiên, phải đến
- Hội nghị Trung ương 8, khóa IX (tháng 7 - 2003), lần đầu tiên, trong Nghị
quyết chuyên đề về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đảng ta
mới đưa ra cách nhìn mới, thống nhất về vấn đề đối tác và đối tượng theo
nguyên tắc: Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và
mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam
đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động phá
mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng
đấu tranh… Trong mỗi đối tượng vẫn có mặt cần tranh thủ, hợp tác trong một số đối
tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta(2). Có thể nói, nguyên tắc trên
đây cũng đồng thời là tiêu chí để xác định đối tác và đối tượng trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Về nhận thức, cần xem xét, làm rõ các cấp độ bao quát về phạm vi đối tác và đối
tượng. Trước hết, xét trên tầm vĩ mô, tổng thể (của chủ thể), đối tác (và đối tượng) được
xác định là một chủ thể: một con người (ai); hay nhiều người, nhiều lực lượng (những
ai, những thế lực,...).Theo đó, có thể hiểu là một người (cá nhân), một nhóm người (tổ
chức) hay suy rộng ra, một tập đoàn người, một quốc gia, dân tộc, v.v. đều có thể là đối
tác (hay đối tượng) của chúng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Ở đây, đối tác (hay đối tượng) được xác định là một chủ thể hoàn
chỉnh (một người, một tổ chức). Thứ hai, ở tầm vi mô, phạm vi hẹp, trong khuôn khổ
của mỗi chủ thể, đối tác và đối tượng không phải là một chủ thể hoàn chỉnh, mà chỉ
là những “mặt”, những “thuộc tính”, những bộ phận của mỗi chủ thể đó. Trong trường
hợp này, đối tượng (hoặc đối tác) chỉ là một, một số, đa số hay hầu hết các mặt, thuộc
tính, bộ phận của một chủ thể trong quan hệ với chúng ta. Vì thế, bất cứ chủ thể nào
cũng có thể vừa là đối tượng lại vừa là đối tác, hay nói chính xác hơn, vừa có mặt đối
tác, vừa có mặt đối tượng trong quan hệ với chúng ta. Diễn đạt theo cách khác, đối
tượng và đối tác là hai mặt luôn đan xen và thống nhất trong mỗi chủ thể. Không có chủ
thể nào chỉ là đối tác hoặc ngược lại, chỉ là đối tượng của cách mạng Việt Nam. Vấn đề
là, trong quan hệ với chúng ta, những “mặt”, những “thuộc tính”, những bộ phận ấy bộc
lộ ra với tư cách gì, là đối tác hay đối tượng. Và, ngay trong mỗi “mặt”, mỗi “thuộc
tính”, mỗi bộ phận cũng bao hàm các yếu tố đối tác và đối tượng ở trong nó. Như vậy,
đối tác và đối tượng có những cấp độ rất khác nhau; chúng không chỉ là những thuộc
- tính đối lập nhau trong mỗi chủ thể, mà còn có ở trong nhau, ngay trong mỗi thuộc tính
của chủ thể. Từ những phân tích trên cho thấy, về mặt lý luận, sẽ không có đối tác (hoặc
đối tượng) toàn diện, thuần túy. Các đối tác (hay đối tượng) toàn diện, thuần túy mà ta
vẫn được nghe, nói trong cuộc sống thường ngày chỉ là khái niệm trừu tượng, có ý nghĩa
tượng trưng và biểu đạt một sắc thái tình cảm chủquan mà thôi. Tuy vậy, cần thấy rằng,
vẫn có những đối tác (hay đối tượng) nhiều mặt trong quan hệ với chúng ta. Thực tế
cách mạng Việt Nam cho thấy, chúng ta đã từng phải đối phó với kiểu chiến tranh phá
hoại nhiều mặt của kẻ thù nguy hiểm.
2. Cũng cần thấy rằng, “đối tác” và “đối tượng” không phải chỉ gồm những “mặt”,
“thuộc tính”, những bộ phận ở trong cùng một chủ thể, đã được bộc lộ ra trong quan hệ
với chúng ta. Bởi lẽ, đối tác hay đối tượng được xác định là những “mặt”, những “thuộc
tính”, những bộ phận nào đấy của một chủ thể trong quan hệ với chủ thể khác. Ngoài
những thuộc tính được biển hiện ra là những đối tác hay đối tượng trong quan hệ với các
chủ thể, thì vẫn còn những thuộc tính khác đang ẩn giấu vai trò trong quan hệ với các
chủ thể. Nghĩa là, trong mối quan hệ của một chủ thể xác định với chúng ta, không phải
ngoài những mặt, những thuộc tính biểu hiện ra thành mặt đối tác (hay đối tượng) thì
các thuộc tính còn lại đều là những mặt đối tượng (hay đối tác). Kể cả trong trường hợp
chủ thể bộc lộ rất nhiều mặt đối tác và mặt đối tượng thì trong nó, vẫn còn những mặt,
những thuộc tính chưa được biểu hiện ra. Đó có thể là những “đối tác thầm lặng”, đối
tác tiềm năng trong tương lai. Và, đó cũng có thể là những “đối tượng giấu mặt”, “đối
tượng tiềm ẩn”. Như vậy, đối tượng và đối tác, xét về phương thức biểu hiện, có hai
dạng: một đã hiện hữu trong các mối quan hệ thực tế với chúng ta và một đang tồn tại
dưới dạng tiềm năng, tiềm ẩn. Nhận thức đúng và dự báo được những dạng biểu hiện
của hai loại đối tác và đối tượng này luôn là đòi hỏi thiết yếu của thực tiễn chính trị và
khoa học chính trị.
3. Sự phân định đối tác, đối tượng là rất cần thiết. Song, sự phân định này cần phải
“mềm dẻo” và “uyển chuyển” trong nhận thức. Trong thực tế, ranh giới giữa đối tác và
đối tượng thường rất “mờ nhòe”, tương đối và do vậy, nhận thức chúng không phải dễ
dàng, đơn giản. Do đó, cần xác định rõ những tiêu chí và quan điểm trong nhận thức và
xử lý vấn đề này. Một trong những tiêu chí rất quan trọng để xác định đối tác là lợi ích.
Lợi ích (hiểu theo nghĩa đầy đủ của nó) phải được bảo đảm cho cả hai phía: phía chúng
- ta và phía đối tác, làm sao để đôi bên “cùng có lợi”, phù hợp với pháp luật Việt Nam và
thông lệ quốc tế. Tiêu chí “cùng có lợi” đã trở thành cơ sở của quan hệ giữa các đối tác.
Tiêu chí này bác bỏ quan điểm “lợi kỷ”, chỉ biết giành lợi ích về phía mình mà thiếu
quan tâm đến lợi ích của phía đối tác. Quan điểm ích kỷ, hẹp hòi này sẽ dẫn tới không
tôn trọng nhau, không bình đẳng, lợi dụng nhau trong quan hệ giữa các đối tác. Từ “lợi
kỷ” sẽ dẫn tới “hại nhân”, sẵn sàng làm tất cả để “lợi mình, hại người”. Điều này cực kỳ
nguy hiểm, vì nó có thể đưa đến sự chuyển hóa đối tác thành đối tượng. Đây là sản
phẩm của lối tư duy thực dụng, thiển cận, không phù hợp với không gian quan hệ mới
giữa các đối tác văn minh, hiện đại. Vì thế, trong quan hệ giữa các đối tác, ngoài mối
quan tâm về lợi ích là chủ chốt nhất, thì vấn đề chữ “tín” đã và đang cần phải được đặt
lên hàng đầu. Cần phải tín nhiệm, tin tưởng nhau, tôn trọng nhau và chỉ có như vậy, mới
trở thành đối tác thực sự của nhau.
Như vậy, về tính chất, dưới góc độ lợi ích chung, có thể thấy đối tác và đối tượng mang
lại lợi ích đối lập nhau (trái ngược nhau) trong quan hệ với chúng ta: đối tác mang lại lợi
ích cho ta, đối tượng thì ngược lại.
Tuy nhiên, lợi hay hại là xét trong những quan hệ xác định, rất cụ thể, ở những thời
điểm cụ thể của những đối tác, đối tượng cụ thể. Từ đó, có thể hiểu là: sẽ không có đối
tác vĩnh viễn và cũng sẽ không có đối tượng bất biến, mãi mãi không thay đổi. Đối
tượng và đối tác có thể thay đổi tính chất, có thể chuyển hoá cho nhau trong những điều
kiện, không gian và thời gian của những quan hệ nhất định. Biện chứng của cuộc sống
đòi hỏi phải khách quan, toàn diện trong xem xét, đánh giá đối tác, đối tượng và phải
biết phân tích, nắm vững bước chuyển hoá đó để có đối sách phù hợp. Cần tránh giáo
điều, siêu hình, máy móc hay tuỳ tiện, vô nguyên tắc trong xử lý vấn đề đối tác và đối
tượng. Phải biết tranh thủ khai thác mặt đối tác, nhưng cũng luôn phải cảnh giác, đấu
tranh với mặt đối tượng trong quan hệ với các chủ thể. Cần phải lấy lợi ích căn bản của
quốc gia, dân tộc, của chủ nghĩa xã hội làm “cái bất biến” để đối phó với “cái vạn biến”
của đối tác và đối tượng. Thực hiện phương châm “thêm bạn, bớt thù”, tranh thủ mọi
khả năng, điều kiện để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
4. Mặc dù không có đối tác vĩnh viễn, nhưng vẫn và luôn cần phải có đối tác chiến lược,
lâu dài. Chúng ta đang thiếu những đối tác chiến lược, tầm cỡ và “toàn diện”, có thể bảo
- đảm lợi ích lâu dài, chắc chắn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Thực tế cho thấy, nếu tự neo mình vào một “điểm tựa” bất biến thì chưa
đủ để bảo đảm sự ổn định lâu dài và phát triển bền vững của đất nước. Cần phải giải
quyết hài hòa mối quan hệ giữa các đối tác song song với giải quyết mối quan hệ giữa
các đối tượng và mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng. Làm thế nào để tránh sự chuyển
hóa bất lợi từ đối tác trở thành đối tượng, mà chỉ có thể tạo ra sự chuyển hóa ngược lại:
từ đối tượng trở thành đối tác. Đây chính là sự nhận thức mới về vấn đề địch - ta, đối
tượng - đối tác theo tinh thần: “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”(3). Không
đồng nhất đối tác với bạn, nhưng cũng không đồng nhất đối tượng với thù. Bạn, theo
nghĩa rộng, đã bao hàm đối tác trong đó. Còn đối tác chưa hẳn đã là bạn theo đúng
nghĩa, đó có thể chỉ là “bạn” trên một góc độ nào đấy, chưa phải là bạn đích thực. Như
vậy, đối tác chỉ là một loại “bạn”; kẻ thù cũng chỉ là một loại đối tượng, nó có thể hiện
diện là “đối tượng tác chiến” - loại đối tượng cần đấu tranh để loại bỏ, chứ không phải
loại đối tượng đấu tranh để hợp tác. Chúng ta không mong muốn có nhiều “đối tượng”,
nhất là đối tượng kẻ thù. Chúng ta càng không muốn có “kẻ thù truyền kiếp”, nhưng
thực tế cuộc sống buộc chúng ta phải thường xuyên nêu cao cảnh giác và đấu tranh cách
mạng.
Trong bối cảnh tình hình diễn biến mau lẹ và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện
chứng về mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng. Trên cơ sở đó, cần khắc phục cả hai
khuynh hướng mơ hồ, mất cảnh giác hoặc cứng nhắc trong nhận thức, chủ trương và
trong xử lý các tình huống cụ thể, nhạy cảm. Nếu không thấy được sự mâu thuẫn, khác
biệt trong các đối tác dễ đi đến chỉ thấy mặt hợp tác, sự thống nhất mà quên đi sự đấu
tranh. Bài học lịch sử của An Dương Vương còn đó! Ngược lại, không thấy mặt cần
tranh thủ, hợp tác trong mỗi đối tượng thì sẽ bỏ mất cơ hội có thể làm phân hóa, chuyển
hóa đối tượng thành đối tác, đồng minh có lợi cho ta. Khi giải quyết vấn đề đối tác, đối
tượng phải có tư duy chiến lược, kết hợp giữa chiến lược với sách lược; giải quyết hài
hòa các quan hệ lợi ích cả trước mắt và lâu dài, cả cục bộ và toàn cục, cả đối nội và đối
ngoại. Vấn đề này, trong bối cảnh chiến tranh trước đây, chúng ta đã làm tốt, nhưng
trong bối cảnh chiến trường - thương trường phức tạp hiện nay, chúng ta cần quan tâm
nghiên cứu thoả đáng và phải tỉnh táo, thực tế hơn nữa. Cần thấm nhuần sâu sắc chủ
- trương Việt Nam sẵn sàng “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán
với một ai”(4) mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra 60 năm trước đây.r
(*) Tiến sĩ, Học viện Chính trị – Quân sự.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 109.
(2) Xem: Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương. Tài liệu học tập Nghị quyết lần thứ
tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2003, tr. 44.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam Sđd., tr. 112.
(4) Hồ Chí Minh Toàn tập, t.5. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 220.
THỰC CHẤT CỦA CUỘC CÁCH MẠNG TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC DO
C.MÁC THỰC HIỆN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN
TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN Ở THỜI ĐẠI NGÀY NAY
TRẦN VĂN PHÒNG (*)
Thực chất của cuộc cách mạng trong lịch sử triết học do C.Mác thực hiện là ở chỗ,
khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng để tạo
nên sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng; sáng
tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử; đưa triết học trở thành công cụ nhận thức và cải
tạo thế giới; thiết lập mối liên minh giữa triết học và các khoa học cụ thể. Trong thời
đại ngày nay, cuộc cách mạng đó vẫn giữ nguyên ý nghĩa to lớn của nó trong việc
phát triển triết học Mác - Lênin, bởi nó là một hệ thống mở, gắn bó hữu cơ với thực
tiễn cách mạng của quần chúng nhân dân, với các khoa học cụ thể.
1. Sự ra đời của triết học Mác vào những năm 40 của thế kỷ XIX đã được thừa nhận
là một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học. Cuộc cách mạng này đã đưa triết học
nhân loại từ thời kỳ chủ yếu là “giải thích thế giới” sang thời kỳ không chỉ “giải thích
- thế giới”, mà còn “cải tạo thế giới”. Rõ ràng là, với sự ra đời của triết học Mác, lịch
sử triết học của nhân loại đã chuyển sang một thời kỳ mới về chất. Thực chất của
cuộc cách mạng này được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện
chứng trong lịch sử triết học trước đó, C.Mác đã tạo nên sự thống nhất hữu cơ
không thể tách rời giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng - đó là chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
Trước khi triết học Mác ra đời, trong suốt chiều dài lịch sử triết học, chủ nghĩa duy
vật thường tách khỏi phương pháp biện chứng. Trong triết học Hy Lạp cổ đại, có thể
nói, đã có sự thống nhất nhất định giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện
chứng ở một số nhà triết học duy vật. Sự thống nhất này được thể hiện rõ nhất trong
triết học của Hêraclít. Tuy nhiên, sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phương
pháp biện chứng trong triết học của Hêraclít còn ở trình độ thấp. Hơn nữa, cả chủ
nghĩa duy vật lẫn phương pháp biện chứng của Hêraclít đều còn ở trình độ thô sơ,
chất phác, đúng như Ph.Ăngghen đã đánh giá: "Cái thế giới quan ban đầu, ngây thơ,
nhưng xét về thực chất thì đúng đó là thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ
đại và lần đầu tiên đã được Hêraclít trình bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại
và đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay
đổi, mọi vật đều không ngừng phát sinh và tiêu vong"(1).
Ở thời kỳ Phục hưng và Cận đại, chủ nghĩa duy vật đã có bước phát triển về chất so
với chủ nghĩa duy vật thời Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật thời kỳ này,
về cơ bản, vẫn là chủ nghĩa duy vật siêu hình. Nghĩa là chủ nghĩa duy vật vẫn tách
rời phương pháp biện chứng. Các nhà triết học cổ điển Đức, nhất là Hêghen, đã đối
lập phương pháp biện chứng với phương pháp siêu hình, tạo ra một giai đoạn phát
triển về chất trong phương pháp nhận thức. Tuy nhiên, phương pháp biện chứng của
Hêghen lại dựa trên nền thế giới quan duy tâm. Nói khác đi, phương pháp biện chứng
của Hêghen không gắn kết hữu cơ với chủ nghĩa duy vật, mà gắn kết hữu cơ với chủ
nghĩa duy tâm. Cho nên, phương pháp biện chứng đó không thực sự trở thành khoa
học, mặc dù nó có đóng góp nhất định cho sự phát triển tư duy nhân loại. Đỉnh cao
của chủ nghĩa duy vật trước Mác là chủ nghĩa duy vật nhân bản của L.Phoiơbắc.
Nhưng, chủ nghĩa duy vật nhân bản của L.Phoiơbắc lại là chủ nghĩa duy vật siêu
- hình, nghĩa là nó vẫn tách khỏi phương pháp biện chứng.
Trong triết học của C.Mác, chủ nghĩa duy vật gắn kết, thống nhất hữu cơ với phương
pháp biện chứng. Chủ nghĩa duy vật được C.Mác làm giàu bằng phương pháp biện
chứng, còn phương pháp biện chứng được ông đặt trên nền chủ nghĩa duy vật. Đồng
thời, cả chủ nghĩa duy vật lẫn phương pháp biện chứng đều được C.Mác phát triển
lên một trình độ mới về chất. Do vậy, sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật
và phương pháp biện chứng trong triết học Mác hơn hẳn về chất so với sự thống nhất
giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại. Vì
vậy, đây chính là bước phát triển cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.
Thứ hai, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện vĩ đại nhất của cuộc cách
mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.
Chủ nghĩa duy vật trước C.Mác đã đóng một vai trò to lớn đối với sự phát triển của
xã hội, của khoa học và triết học. Tuy nhiên, đó là chủ nghĩa duy vật không triệt để.
Nghĩa là nó chỉ duy vật trong giải thích thế giới tự nhiên, nhưng còn duy tâm trong
giải thích xã hội, lịch sử, tinh thần. Do vậy, chủ nghĩa duy vật trước C.Mác đã không
đánh đổ được chủ nghĩa duy tâm một cách hoàn toàn. Chủ nghĩa duy tâm vẫn còn
nơi ẩn trú của nó là lĩnh vực xã hội, lịch sử, tinh thần. Chủ nghĩa duy vật của C.Mác
đã giải thích một cách duy vật, khoa học không chỉ thế giới tự nhiên, mà cả lĩnh vực
xã hội, lịch sử, tinh thần. Do vậy, chủ nghĩa duy vật của C.Mác là chủ nghĩa duy vật
triệt để nhất, hoàn bị nhất. Không phải ngẫu nhiên mà V.I.Lênin đã khẳng định:
“Triết học của Mác là một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị”(2). Rằng, “chủ nghĩa
duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận
khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn
ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị”(3). Như vậy, với
quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác đã kết thúc thời kỳ nghiên cứu xã hội, lịch sử
một cách tùy tiện, lộn xộn, mở ra một thời kỳ mới trong nghiên cứu xã hội, lịch sử
bằng việc chỉ ra quy luật hình thành, vận động và phát triển của xã hội, của lịch sử.
Ph.Ăngghen đã so sánh phát minh này của C.Mác như phát minh của Đácuyn trong
khoa học tự nhiên: “Giống như Đácuyn đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu
cơ, Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người”(4). Chủ nghĩa duy vật
lịch sử của C.Mác “chỉ cho ta thấy rằng, do chỗ lực lượng sản xuất lớn lên, thì từ một
- hình thức tổ chức xã hội này, nảy ra và phát triển lên như thế nào một hình thức tổ
chức đời sống xã hội khác, cao hơn; chẳng hạn, chủ nghĩa tư bản đã nảy sinh ra như
thế nào từ chế độ phong kiến”(5). Về bản chất, chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác -
quan niệm duy vật về lịch sử - cũng là chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhưng thể hiện
được tính đặc thù của lĩnh vực lịch sử – lĩnh vực hoạt động của con người. Chính chủ
nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng đã trở thành cơ sở thế giới
quan và phương pháp luận cho C.Mác nghiên cứu kinh tế, phát hiện ra học thuyết giá
trị thặng dư, hiểu được sự phát sinh, phát triển, diệt vong tất yếu của hình thái kinh tế
- xã hội tư bản chủ nghĩa. Do vậy, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện
vĩ đại nhất của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.
Thứ ba, với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử, C.Mác đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của
con người. Trên cơ sở đó, triết học của ông đã trở thành công cụ nhận thức và cải
tạo thế giới của nhân loại tiến bộ.
Trước khi triết học Mác ra đời, các nhà triết học thường tập trung chủ yếu vào giải
thích thế giới, mà ít chú ý tới cải tạo thế giới. Đúng như C.Mác đã từng nhận định:
“Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề
là cải tạo thế giới”(6). Cũng đã có một số nhà triết học muốn cải tạo thế giới nhưng
lại bằng con đường không tưởng - dựa vào các lực lượng siêu nhiên, bằng “khai
sáng”, mở mang dân trí, bằng con đường giáo dục đạo đức,v.v.. Có thể nói, không
một nhà triết học nào trước C.Mác hiểu được thực tiễn và vai trò của nó đối với cải
tạo thế giới. Các nhà triết học Khai sáng Pháp muốn thay thế các quan hệ xã hội
phong kiến lạc hậu, lỗi thời bằng các quan hệ xã hội tiến bộ hơn cũng không hiểu
được rằng, phải thông qua hoạt động thực tiễn của đông đảo quần chúng mới thực
hiện được điều này. Ngay cả L.Phoiơbắc - đại biểu lớn nhất của chủ nghĩa duy vật
trước C.Mác - “cũng chỉ coi hoạt động lý luận là hoạt động đích thực của con người,
còn thực tiễn thì chỉ được ông xem xét và xác định trong hình thức biểu hiện Do Thái
bẩn thỉu của nó mà thôi”(7). Không phải ngẫu nhiên mà sau này, C.Mác đã nhận
định: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay – kể cả
chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc – là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được
nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận
- thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn”(8).
Trung tâm chú ý của triết học Mác không chỉ là giải thích thế giới, mà quan trọng
hơn là cải tạo thế giới. Khác với các nhà triết học trước đó, C.Mác đã chỉ ra rằng, chỉ
có thể cải tạo được thế giới thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Với việc
đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận thức nói riêng, vào triết học nói chung,
C.Mác đã làm cho triết học của ông hơn hẳn về chất so với toàn bộ triết học trước đó.
Trong triết học Mác, không có sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của
con người, trước hết là hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản. Hoạt động thực tiễn
của giai cấp vô sản được soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, định hướng bởi chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngược lại, hoạt động thực tiễn của giai
cấp vô sản lại là cơ sở, động lực cho sự phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Giữa triết học Mác với hoạt động thực tiễn của giai cấp
vô sản có sự thống nhất hữu cơ với nhau. Đúng như C.Mác đã khẳng định: “Giống
như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chấtcủa mình, giai cấp vô sản cũng
thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”(9). Do vậy, triết học Mác đã trở thành
công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của giai cấp vô sản và của toàn thể nhân loại
tiến bộ.
Thứ tư, với việc sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử, C.Mác đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với các khoa học cụ thể.
Trước khi triết học Mác ra đời, triết học hoặc là hòa tan, ẩn giấu đằng sau các khoa
học khác, hoặc đối lập với chúng. Chẳng hạn, ở phương Đông cổ đại, triết học
thường ẩn giấu đằng sau các học thuyết về chính trị, tôn giáo, đạo đức,v.v.. Ở Hy
Lạp cổ đại, triết học được coi là “khoa học của các khoa học”. Trong thời kỳ Trung
cổ, triết học được coi là “bộ môn” của thần học, có nhiệm vụ chứng minh sự tồn tại
của Thượng đế. Ở thời kỳ Cận đại, triết học được coi là mêthaphisica với nghĩa là
nền tảng thế giới quan của con người, như quan niệm của R.Đêcáctơ; hoặc triết học
được coi là tổng thể tri thức của con người trong quan niệm của Ph.Bêcơn, v.v..
Trong triết học cổ điển Đức, triết học lại được coi là “khoa học của các khoa học”.
Quan hệ giữa triết học Mác với các khoa học cụ thể là quan hệ biện chứng, tác động
qua lại lẫn nhau. Các khoa học cụ thể cung cấp cho triết học Mác các tư liệu, dữ
kiện, thông số khoa học để triết học Mác khái quát. Ngay sự ra đời của triết học Mác
- cũng không thể thiếu những tiền đề khoa học tự nhiên. Chính những thành tựu của
khoa học tự nhiên nửa đầu thế kỷ XIX đã làm bộc lộ những hạn chế, sự bất lực của
phương pháp siêu hình trong nhận thức thế giới; đồng thời cung cấp cơ sở khoa học
cho sự ra đời của phương pháp biện chứng. Trong quan hệ với các khoa học cụ thể,
triết học Mác đóng vai trò thế giới quan, phương pháp luận chung nhất. Thực tiễn
phát triển mạnh mẽ của các khoa học cụ thể càng làm tăng vai trò thế giới quan,
phương pháp luận của triết học Mác. Đúng như một nhà khoa học tự nhiên ở thế kỷ
XX đã nhận xét: “Các khái quát hóa triết học cần dựa trên các kết quả khoa học. Tuy
nhiên, một khi đã xuất hiện và được truyền bá rộng rãi, chúng thường rất ảnh hưởng
đến sự phát triển tiếp tục của tư tưởng khoa học, khi chúng chỉ ra một trong rất nhiều
phương hướng phát triển có thể có”(10). Như vậy, sự ra đời của triết học Mác đã
chấm dứt mâu thuẫn giữa triết học với các khoa học cụ thể.
Cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô
cùng to lớn đối với thời đại. Chính cuộc cách mạng này đã làm cho chủ nghĩa xã hội
không tưởng có cơ sở để trở thành khoa học. Cuộc cách mạng này cũng làm cho triết
học thay đổi cả về vai trò, chức năng và nhiệm vụ. Triết học Mác đã trở thành công cụ
nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ.
2. Kể từ khi triết học Mác ra đời cho đến nay, thực tiễn đã có nhiều đổi thay, nhưng
triết học Mác vẫn giữ nguyên ý nghĩa lý luận cũng như giá trị thực tiễn trong thời đại
ngày nay. Có thể nói, cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện vào những
năm 40 của thế kỷ XIX vẫn giữ nguyên ý nghĩa to lớn trong việc phát triển triết học
Mác - Lênin ở thời đại ngày nay. Điều này thể hiện ở chỗ:
Một là, với tinh thần của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta phải thấy rằng, triết
học Mác - Lênin là một hệ thống mở chứ không phải là hệ thống khép kín; nó đòi hỏi
luôn phải được bổ sung, hoàn thiện, phát triển. Đối với phương pháp biện chứng duy
vật, không có gì là bất biến. Bản thân C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin không bao
giờ tự coi lý luận của các ông là “bất khả xâm phạm”, là khép kín, là chân lý tuyệt
đích cuối cùng. Trái lại, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn đòi hỏi
những người cộng sản sau này phải biết vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản
của triết học Mác - Lênin sao cho phù hợp với điều kiện thực tiễn và phải biết bổ
sung, hoàn thiện, phát triển chúng. Trên tinh thần ấy mà lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ
- Chí Minh luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm học tập chủ
nghĩa Mác - Lênin là “phải học tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin; học tập lập
trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập
trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế
trong công tác cách mạng của chúng ta”(11); “học tập cái tinh thần xử trí mọi việc,
đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của
chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước
ta. Học để mà làm”(12). Đồng thời, Người cũng yêu cầu lý luận phải thường xuyên
được “bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động”(13). Do
vậy, chúng ta phải xuất phát từ điều kiện thực tiễn mới, trên cơ sở lập trường, quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta để thường
xuyên bổ sung, hoàn thiện, phát triển triết học Mác - Lênin. Tinh thần duy vật biện
chứng đòi hỏi chúng ta phải xuất phát từ điều kiện thực tiễn khách quan để bổ sung,
hoàn thiện, phát triển triết học Mác - Lênin, nhưng phải biết tổng kết thực tiễn một
cách khách quan, biện chứng, có chắt lọc, có lý luận. Đồng thời, phải tránh siêu hình,
rơi vào chủ nghĩa duy vật tầm thường, thô thiển, chỉ biết căn cứ từ thực tiễn vụn vặt,
cục bộ để bổ sung, hoàn thiện, phát triển triết học Mác - Lênin. Không chỉ thế, còn
phải luôn bảo đảm sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện
chứng, tránh mắc phải sai lầm của các nhà triết học trước Mác. Trên tinh thần duy
vật biện chứng, để bổ sung, hoàn thiện, phát triển triết học Mác - Lênin có hiệu quả,
cần tiếp tục tinh thần duy vật triệt để. Nghĩa là phải giải quyết tốt những vấn đề của
xã hội, của lịch sử trên tinh thần duy vật và biện chứng.
Hai là, sự ra đời của triết học Mác gắn bó chặt chẽ với thực tiễn phong trào công
nhân những năm 30 - 40 của thế kỷ XIX. Bản thân triết học Mác cũng gắn bó hữu cơ
với thực tiễn cách mạng của quần chúng nhân dân. Chính C.Mác, trong quá trình
sáng tạo triết học, đã khắc phục sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của
con người. Bởi vậy, bổ sung, hoàn thiện, phát triển triết học Mác - Lênin phải theo
hướng gắn bó với thực tiễn, bảo đảm sự thống nhất giữa triết học với thực tiễn. Thực
tiễn luôn vận động, biến đổi và phát triển, do vậy, nhận thức của con người cũng
luôn cần được bổ sung, hoàn thiện và phát triển cho phù hợp với thực tiễn đó. Triết
học Mác - Lênin cũng không nằm ngoài quy luật này. V.I. Lênin và Hồ Chí Minh là
- những tấm gương sáng về việc bổ sung, hoàn thiện và phát triển triết học Mác -
Lênin trong những điều kiện mới của thực tiễn. Sự thống nhất giữa triết học Mác -
Lênin với thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải tìm lời giải đáp cho những vấn đề của ngày
hôm nay từ chính thực tiễn ngày hôm nay chứ không thể chỉ tìm trong lịch sử. Tuy
nhiên, trong quá trình bổ sung, hoàn thiện và phát triển triết học Mác - Lênin cần
tránh hai thái cực sai lầm: hoặc là không thấy được những đổi thay của thực tiễn, bảo
thủ không muốn bổ sung, hoàn thiện và phát triển những nguyên lý của triết học Mác
- Lênin; hoặc là quá nhấn mạnh, tuyệt đối hóa sự đổi thay của thực tiễn dẫn đến đòi
xét lại triết học Mác - Lênin.
Ba là, ngay từ khi mới ra đời, triết học Mác đã gắn bó hữu cơ với các khoa học cụ
thể. Do vậy, ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, triết
học Mác - Lênin không thể không được bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận của
mình. Ph.Ăngghen đã từng nhấn mạnh: “Mỗi lần có một phát minh mang ý nghĩa
thời đại ngay cả trong lĩnh vực khoa học lịch sử - tự nhiên thì chủ nghĩa duy vật lại
không tránh khỏi thay đổi hình thức của nó; và từ khi bản thân lịch sử cũng được giải
thích theo quan điểm duy vật chủ nghĩa thì ở đây, cũng mở ra một con đường phát
triển mới”(14). Rõ ràng, mỗi khi khoa học tự nhiên có những phát minh vạch thời đại
thì chủ nghĩa duy vật không thể không thay đổi hình thức để phát triển. Cũng vì vậy,
sự hợp tác giữa những người nghiên cứu triết học Mác - Lênin với các nhà khoa học
tự nhiên trong điều kiện hiện nay là hết sức cần thiết. Nếu triết học Mác - Lênin
không được bổ sung, hoàn thiện và phát triển trên cơ sở khái quát những thành tựu
mới của các khoa học cụ thể thì sẽ trở nên lạc hậu, nghèo nàn, khô cứng, không thể
đáp ứng được vai trò thế giới quan, phương pháp luận chung nhất cho các khoa học
cụ thể, cũng như cho quần chúng nhân dân trong hoạt động cải tạo thế giới. Đương
nhiên, nếu không đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
phương pháp biện chứng duy vật thì trước những phát minh mới của khoa học, người
ta dễ mất phương hướng, dễ mắc phải sai lầm trong nhận thức và trong hoạt động
thực tiễn. Ph.Ăngghen đã từng phê phán một số nhà khoa học tự nhiên khi cho rằng,
họ không cần tới tư duy lý luận. Theo Ph.Ăngghen, những nhà khoa học tự nhiên ấy,
trên thực tế, lệ thuộc rất nhiều vào tư duy lý luận, nhưng thường lại là tư duy sai lầm
được rút ra từ những học thuyết triết học “tồi tệ nhất”. Trong Biện chứng của tự
- nhiên, Ph.Ăngghen viết: “Những nhà khoa học tự nhiên tưởng rằng họ thoát khỏi
triết học bằng cách không để ý đến nó hoặc phỉ báng nó. Nhưng vì không có tư duy
thì họ không thể tiến lên được một bước nào và muốn tư duy thì họ cần có những
phạm trù lôgíc, mà những phạm trù ấy thì họ lấy một cách không phê phán, hoặc lấy
trong cái ý thức chung, thông thường của những người gọi là có học thức, cái ý thức
bị thống trị bởi những tàn tích của những hệ thống triết học đã lỗi thời, hoặc lấy
trong những mảnh vụn của các giáo trình triết học bắt buộc trong các trường đại học
(đó không chỉ là những quan điểm rời rạc, mà còn là một mớ hổ lốn những ý kiến
của những người thuộc các trường phái hết sức khác nhau và thường là những trường
phái tồi tệ nhất), hoặc lấy trong những tác phẩm triết học đủ các loại mà họ đọc một
cách không có hệ thống và không phê phán - cho nên dù sao, rút cục lại, họ vẫn bị lệ
thuộc vào triết học… Những ai phỉ báng triết học nhiều nhất lại chính là những kẻ nô
lệ của những tàn tích thông tục hoá, tồi tệ nhất của những học thuyết triết học tồi tệ
nhất”(15). Do vậy, Ph.Ăngghen cho rằng, “dù các nhà khoa học tự nhiên có làm gì đi
nữa thì họ vẫn bị triết học chi phối. Vấn đề chỉ ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi một
thứ triết học tồi tệ hợp mốt, hay họ muốn được hướng dẫn bởi một hình thức tư duy
lý luận dựa trên sự hiểu biết về lịch sử tư tưởng và những thành tựu của nó”(16). Và,
không phải ngẫu nhiên mà trong Lời tựa viết cho ba lần xuất bản tác phẩm Chống
Đuyrinh, Ph.Ăngghen đã viết: “Chỉ có khi nào khoa học tự nhiên tiếp thu được
những kết quả của hai nghìn năm trăm năm phát triển của triết học thì nó mới có thể,
một mặt, thoát khỏi mọi thứ triết học tự nhiên đứng tách riêng, đứng ngoài và đứng
trên nó, và mặt khác, thoát khỏi cái phương pháp tư duy hạn chế của chính nó, do
chủ nghĩa kinh nghiệm Anh để lại”(17). Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chỉ
cần nắm được triết học Mác - Lênin thì con người sẽ giải quyết được mọi vấn đề cụ
thể do thực tiễn đặt ra. Triết học Mác - Lênin không phải bảo bối chứa sẵn mọi cách
giải quyết những vấn đề do cuộc sống cũng như nhận thức đặt ra. Để tìm được lời
giải đáp cho những vấn đề nảy sinh, bên cạnh những tri thức triết học Mác - Lênin,
còn phải cần đến những tri thức của các khoa học cụ thể, kinh nghiệm sống và hoạt
động thực tiễn của mỗi người. Thiếu những điều đó, chúng ta không thể hiểu và vận
dụng đúng những nguyên lý của triết học Mác - Lênin. Do vậy, trong việc bổ sung,
hoàn thiện và phát triển triết học Mác - Lênin, cần phải chống cả hai thái cực sai lầm:
- hoặc coi thường triết học Mác - Lênin, tuyệt đối hóa các khoa học cụ thể; hoặc chỉ
thấy có triết học Mác - Lênin, không thấy vai trò của các khoa học cụ thể. Đồng
thời, cũng cần phải nhận thức đúng rằng, bản thân triết học Mác - Lênin cũng cần
được đổi mới, bổ sung, hoàn thiện và phát triển.
Như vậy, có thể khẳng định lại rằng, hơn một thế kỷ rưỡi đã trôi qua, kể từ khi cuộc
cách mạng trong triết học được C.Mác thực hiện, ý nghĩa của cuộc cách mạng này
vẫn giữ nguyên tính thời sự và tính thực tiễn cho việc phát triển triết học Mác - Lênin
trong thời đại hiện nay.r
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Phó viện trưởng Viện Triết học, Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.20. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.
35.
(2) V.I.Lênin. Toàn tập, t.23. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.54.s
(3) V.I.Lênin. Sđd., t.23, tr.53.
(4) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.19, tr.499.
(5) V.I.Lênin. Sđd., t.23, tr.53.
(6) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.12.
(7) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.9.
(8) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.9.
(9) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.1, tr.589.
(10) A.Anhxtanh và Inpheđơ. Sự tiến triển của vật lý học. Mátxcơva, 1965, tr.48,
(tiếng Nga); Xem: Lê Hữu Nghĩa (chủ biên). Thời đại chúng ta và sức sống của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.90.
(11) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.8. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.497.
(12) Hồ Chí Minh. Sđd., t.9, tr.292.
(13) Hồ Chí Minh. Sđd., t.8, tr.496.
(14) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.21, tr.409.
(15) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.20, tr.692 - 693.
(16) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.20, tr. 693.
(17) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.20, tr.28.
- TÍNH SÁNG TẠO CỦA TRIẾT HỌC MÁC THỰC CHẤT VÀ Ý NGHĨA LỊCH
SỬ
ĐINH NGỌC THẠCH (*)
Để làm rõ thực chất và ý nghĩa lịch sử trong tính sáng tạo của triết học Mác, trong
bài viết này, tác giả đã đưa ra và luận giải việc C.Mác đã kế thừa có chọn lọc và
phát triển sáng tạo di sản văn hoá nhân loại, nhất là lịch sử tư tưởng triết học nhân
loại, gắn kết với thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản toàn thế giới và
những thành tựu mới của khoa học, gắn kết hữu cơ chủ nghĩa duy vật với phép biện
chứng để tạo nên một học thuyết cách mạng về giải phóng con người, giải phóng xã
hội. Với tư cách một hệ thống lý luận chặt chẽ nhưng lại mang tính mở, triết học
Mác vẫn giữ nguyên giá trị lịch sử và ý nghĩa cách mạng của nó trong thời đại ngày
nay, vẫn là công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ, là cơ sở lý
luận và kim chỉ nam cho mọi hành động của chúng ta trong công cuộc đổi mới đất
nước.
1. Triết học Mác ra đời từ những năm 40 của thế kỷ XIX, khi mà trong văn hoá châu
Âu quá trình phi cổ điển hoá đã đạt được kết quả bước đầu, với sự hình thành những
môtíp mới của sáng tạo, khác với truyền thống cổ điển thời kỳ Hy Lạp – La Mã cổ
đại. Về triết học, quá trình phi cổ điển hoá gắn liền với sự hình thành hai khuynh
hướng chủ đạo – phi duy lý và thực chứng – khoa học. Cả hai khuynh hướng này đều
từ bỏ cách tiếp cận đã tồn tại suốt hàng ngàn năm đối với các vấn đề triết học.
Khuynh hướng thứ nhất gắn liền với tên tuổi của A.Schopenhauer - cha đẻ của triết
học sự sống và ý chí luận. Khuynh hướng thứ hai gắn với A.Comte - người khởi
xướng chủ nghĩa thực chứng xã hội học. Đối với Comte, các khái niệm triết học chủ
đạo của siêu hình học truyền thống, như vật chất, tồn tại, tinh thần, ý thức, cái phổ
- quát, cũng như cuộc tranh luận triền miên xung quanh vấn đề tính có trước và tính có
sau trong quan hệ vật chất – ý thức là mơ hồ và vô giá trị trước những đòi hỏi của sự
phát triển khoa học, nhận thức. Vì vậy, ông chủ trương vượt qua cả chủ nghĩa duy
vật lẫn chủ nghĩa duy tâm, xác lập con đường thứ ba trong triết học, hướng triết học
vào các vấn đề của khoa học cụ thể, trước hết là khoa học thực nghiệm, nhằm kiểm
chứng các luận điểm triết học thông qua tính hiệu quả, tính khách quan theo cách
hiểu của ông. Ngược lại, trong ý chí luận của mình, A. Schopenhauer xem ý chí như
sức mạnh thiết định sự tồn tại của thế giới. Là đối thủ tư tưởng của Hêghen,
Schopenhauer đã phê phán chủ nghĩa duy lý truyền thống và xem lý trí chỉ như kẻ
phụng sự ý chí. Sự xoay chiều tư tưởng ấy ở Schopenhauer có lý do sâu xa, trước
hết là từ hiện thực bi kịch của nước Đức và những thất bại, những uẩn khúc trong đời
sống riêng tư của bản thân ông. Triết học Schopenhauer sau cách mạng dân chủ tư
sản đã ảnh hưởng đáng kể đến giới trẻ có học thức ở Đức và Tây Âu, và cùng với các
nhà triết học kế tiếp – S.Kierkegaard, F.Nietzsche đã tạo nên cái trục phi duy lý của
triết học phi cổ điển – hiện đại phương Tây.
Ở Đức, trong khi Kierkegaard chối bỏ chủ nghĩa duy lý của Hêghen để đi vào mặc
khải Thiên Chúa, thì N.Stirner, một đại biểu của phái Hêghen trẻ – lại kết hợp hệ
thống Hêghen với chủ nghĩa cá nhân triệt để. Và trong khi Kierkegaard cố gắng thoát
hẳn khỏi truyền thống cổ điển, thì N.Stirner lại không thể vượt qua hệ thống Hêghen,
mà tái thiết nó theo tinh thần của cái Tôi. Vào năm 1948, khi C.Mác và Ph.Ăngghen
công bố Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, thì cũng trong khoảng thời gian đó,
Kierkegaard xuất bản cuốn Đối thoại Kitô giáo, với nội dung chủ yếu là chống lại
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa vô thần.
Chính trong bối cảnh đó, thái độ đối với truyền thống, cụ thể là đối với hệ thống
Hêghen, đã có ý nghĩa quyết định đối với sự hình thành bản chất của triết học do
C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập. Thay vì sự chối bỏ, C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn
mạnh tính kế thừa có chọn lọc tinh hoa tri thức nhân loại, từ cổ đại đến các bậc tiền
bối trực tiếp, nhưng không hoà lẫn vào dòng chảy của chủ nghĩa nhân văn phương
Tây như E.Fromm – một đại diện của trường phái Frankfurt - đã làm, mà thực hiện
bước ngoặt cách mạng trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Yếu tố nào đóng vai trò chủ
đạo trong sự lựa chọn cách tiếp cận đó của C.Mác và Ph.Ăngghen? Theo chúng tôi,
- đó là phép biện chứng. Ngay từ khi C.Mác và Ph.Ăngghen còn đứng trên lập trường
duy tâm, phép biện chứng trong triết học cổ điển Đức, từ Kant đến Hêghen, đặc biệt
là phép biện chứng Hêghen, vẫn có sức lôi cuốn mạnh mẽ nhất. Trong diện mạo văn
hóa của chủ nghĩa Mác luôn bao hàm nguyên tắc kế thừa và phát triển, sự đánh giá
nghiêm túc và khoa học đối với di sản văn hóa tinh thần nhân loại, được cô đọng
trong các học thuyết triết học, từ Cổ đại đến Cận đại, đồng thời xác định triết học
như một “tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại”(1). Không chỉ thế, C.Mác còn nhấn
mạnh rằng, “các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời
đại mình, của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất , quý giá và vô hình được tập
trung lại trong những tư tưởng triết học”(2).
Có thể nói, việc tiếp cận với môi trường văn hóa sống động của châu Âu nói chung,
nước Đức nói riêng và xa hơn nữa, việc làm quen với di sản văn hóa đồ sộ của nhân
loại, đã tạo nên bản chất cách mạng và giàu tính nhân văn cho triết học Mác nói
riêng, chủ nghĩa Mác nói chung. Mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa Mác là giải
phóng con người và tạo ra môi trường cho sự sáng tạo tự do của con người, hay nói
như C.Mác và Ph.Ăngghen, tạo ra môi trường sáng tạo cho những Raphaen của thời
đại(3). Điều quan trọng là, những bài học rút ra từ việc tìm hiểu, nhận thức các giá trị
văn hóa nhân loại đã thôi thúc những người sáng lập chủ nghĩa Mác tìm kiếm con
đường hiện thực của sự giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, đưa lịch sử tiến
về phía trước. Trong triết học Mác, ngay từ lúc mới hình thành, chức năng hệ tư
tưởng đã không tách rời chức năng văn hóa. T.I.Ôigiécman cho rằng, khi đề cập đến
chức năng hệ tư tưởng của triết học Mác, chúng ta cần nhấn mạnh tính định hướng
của nó đối với giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống ý thức hệ tư sản; song,
chớ nên quên rằng, triết học Mác đã kế thừa những gì tốt đẹp nhất trong triết học tư
sản cổ điển, mà đó lại chính là những yếu tố đã đóng góp vào kho báu tinh thần của
nhân loại. Thái độ hư vô chủ nghĩa của phái “Văn hóa vô sản” đối với lịch sử chẳng
khác nào đồng nhất triết học Mác với hệ tư tưởng, phủ nhận tính kế thừa trong sự
phát triển tư duy(4).
Triết học Mác, cũng như các học thuyết triết học khác, không thể hình thành một
cách tự phát. Để tạo nên một hệ thống lý luận chặt chẽ, nó phải cần đến một khối
lượng công việc khoa học đồ sộ, sự hoạt động nghiên cứu không mệt mỏi của tư duy,
- sự nhận thức thấu đáo về mặt lý luận toàn bộ thành tựu khoa học và kinh nghiệm đấu
tranh xã hội của các thời đại lịch sử. Bước ngoặt cách mạng trong triết học Mác;
đương nhiên, gắn liền một cách biện chứng với việc nắm bắt các thành tựu tư duy lý
luận và văn hóa của nhân loại. Trong Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành của chủ
nghĩa Mác, V.I.Lênin đã chỉ rõ rằng, mọi toan tính xem xét chủ nghĩa Mác bên ngoài
con đường phát triển của văn hóa nhân loại, biến nó thành một học thuyết biệt phái,
“đóng kín và cứng nhắc, nảy sinh ở ngoài con đường phát triển vĩ đại của văn minh
thế giới” đều là biểu hiện của cách tiếp cận mang tính xuyên tạc, trái với chân lý(5).
Các thành quả của tư tưởng nhân loại, trong đó có triết học luôn chứa đựng những
vấn đề đòi hỏi phải có cả lời giải đáp mới lẫn những “hạt nhân hợp lý” mà C.Mác và
Ph.Ăngghen đã sử dụng như tiền đề lý luận của mình.
2. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, ngay từ những dòng đầu tiên, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã viết: “Một bóng ma đang ám ảnh châu Âu: bóng ma của chủ nghĩa
cộng sản. Tất cả những thế lực của châu Âu cũ… đều đã liên hợp lại thành một liên
minh thần thánh để trừ khử bóng ma đó”(6). Điều đó cho thấy, ngay từ khi mới ra
đời, chủ nghĩa Mác đã trở thành một nỗi “ám ảnh” đối với “châu Âu cũ” và do vậy,
sự đánh giá về C.Mác, cũng như chủ nghĩa Mác đã trở thành điểm nóng của diễn đàn
tư tưởng trong suốt gần hai thế kỷ qua.
Sự đánh giá của các nhà tư tưởng phương Tây hiện đại về chủ nghĩa Mác không
đồng nhất do thiên hướng chính trị của họ. Có thể kể đến ba biểu hiện:
1) Xuyên tạc bản chất của chủ nghĩa Mác, xem chủ nghĩa Mác là một dị biệt, hay
“chủ nghĩa bè phái”,
2) Trung lập hoá C.Mác, đặt tư tưởng của C.Mác trong dòng chảy của chủ nghĩa nhân
văn truyền thống, hoà tan C.Mác vào dòng chảy đó; hoặc phân tích tư tưởng của C.Mác
một cách phiến diện, chỉ chú trọng đến những nội dung có liên quan tới việc phê phán
xã hội, nhưng lại hạ thấp thế giới quan duy vật biện chứng và dự báo khoa học.
3) Đối lập C.Mác với các nhà mácxít khác, tách C.Mác khỏi Ph.Ăngghen và
V.I.Lênin, xem sự phát triển của chủ nghĩa Mác ở Liên Xô, các nước Đông Âu là chủ
nghĩa Mác đã bị biến dạng.
Bên cạnh đó, vẫn có nhiều nhà nghiên cứu phương Tây đánh giá nghiêm túc học
thuyết của C.Mác, đặc biệt nhấn mạnh tính mở, tính sáng tạo của chủ nghĩa Mác.